Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

VÀI NÉT VỀ : PHẬT GIÁO & KHOA HỌC

Filled under:


Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNkh/TCNkh16.php
ngày 14 tháng 9, 2008
Trước hết tôi cần phải nói rõ rằng: “Phật Giáo là một chủ đề vĩ đại, vô cùng vĩ đại với một rừng Kinh Sách, Giáo lý và Triết lý. Hiếm có người có thể tự nhận là mình đã thông suốt toàn bộ Giáo lý của Đức Phật. Thứ đến, Khoa Học cũng là một chủ đề rộng lớn, quá rộng lớn, và tôi tin rằng không một người nào dám nói là mình đã biết hết về Khoa Học. Cho nên, tôi chỉ xin cố gắng trình bày vài nét về đề tài “Phật Giáo & Khoa Học” theo sự hiểu biết của tôi, nhưng tôi tin chắc chắn cũng còn nhiều thiếu sót.
Nói về Phật Giáo & Khoa Học thì trước hết chúng ta cần biết rõ một sự kiện: Hiện nay, không ai có thể phủ nhận là Phật Giáo đang phát triển mạnh trên toàn thế giới, nhất là trong những xã hội Âu Mỹ, những xã hội được coi là tiến bộ nhất về khoa học, kỹ thuật. Điều này phản ánh một sự kiện: trong những xã hội này, con người đã quen với tính chất chính xác và hợp lý của khoa học, và họ ngả theo Phật Giáo vì tinh thần Phật Giáo rất phù hợp với tinh thần khoa học. Hơn nữa, trong lịch sử Phật Giáo, họ không tìm thấy một dấu vết tỳ ố nào về vấn đề chống khoa học hay đàn áp khoa học gia bằng bạo lực, chưa kể là Phật Giáo đã giúp họ giải quyết được một số vấn đề trong thời đại khoa học tân tiến ngày nay. Và hay hơn cả là, trong suốt giòng lịch sử truyền đạo hơn 2500 năm, Phật Giáo chưa hề làm đổ một giọt máu của người vô tội và cũng chưa hề cưỡng bức ai phải theo Phật Giáo. Chủ trương hòa bình của Phật Giáo là điều mà thế giới tranh chấp hỗn loạn ngày nay cần hơn gì hết.
Thật vậy, Joseph L. Daleiden, một học giả Công Giáo, trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition), xuất bản năm 1994, sau khi phân tích và đánh giá cái di sản Do Thái - Ki Tô (A Critical and Evaluation of the Judeo-Christian Legacy), đã đề nghị những Tín Ngưỡng Khác Thay Cho Thần Giáo (Alternatives to Theism). Về Phật Giáo tác giả viết, trang 424:
Lời giới thiệu hay nhất về Phật Giáo là, giống như Khổng giáo, hệ thống tín ngưỡng này đã hiện hữu trong 25 thế kỷ mà không hề có một cuộc Thánh Chiến, một Tòa Án Xử Dị Giáo, hay một toan tính đế quốc nào nhằm xâm chiếm và phá hủy nền văn hóa của một dân tộc khác. ác.
(The best recommendation for Buddhism is that, like Confucianism, this belief system has existed for twenty-five centuries without a single Crusade, Inquisition, or imperialist attempt to invade and destroy the culture of another people.)
Chúng ta đã biết, Thánh Chiến, Tòa Án Xử và Thiêu Sống Dị Giáo, Săn Lùng Tra Tấn Và Thiêu Sống Phù Thủy, Toan tính Đế Quốc nhằm xâm chiếm và phá hủy nền văn hóa của một dân tộc khác v…v… đều là những núi tội ác của Công giáo mà Giáo hoàng John Paul II đã xưng thú cùng thế giới ngày 12 tháng 3, năm 2000.
Sự phát triển của Phật Giáo vào các xã hội tân tiến Âu Mỹ đã làm cho một số người vô minh trong những xã hội này lo sợ, lo sợ vì ánh sáng trí tuệ và đạo đức của Phật Giáo đã làm cho bóng tối của những mê tín phi lý, phi đạo đức phải lùi dần, và những người xây dựng quyền lực trên bóng tối của vô minh cảm thấy bị đe dọa vì quyền lực thế gian cũng như những đặc quyền vật chất của mình cứ mất dần. Cho nên, đã có bậc chủ chăn của một tôn giáo lớn ở Tây phương đã phải dùng đến hạ sách là viết sách xuyên tạc Phật Giáo để mong vớt vát phần nào niềm tin đã lung lay còn sót lại trong số tín đồ phần lớn ở trong các quốc gia nghèo khổ và kém mở mang. Ngoài ra, cũng có một số người trong Phật Giáo, đưa ra những tương đồng giữa Phật Giáo và Khoa Học với mục đích đề cao Phật Giáo trong thời đại tiến bộ của khoa học. Do đó, đã có một số người lên tiếng chê bai và cho rằng, làm như vậy là "Thấy sang bắt quàng làm họ, dùng những giả thiết trong khoa học để biện hộ cho niềm tin Phật Giáo."
Theo thiển ý, những người dùng khoa học để đề cao Phật Giáo cũng như những người phê phán là “Phật Giáo thấy sang bắt quàng làm họ v..v..” có lẽ chưa hiểu rõ, dù chỉ là đại cương, hoặc về Phật Giáo, hoặc về Khoa Học, hoặc về cả hai, cho nên mới bị cái hào quang của Khoa Học làm cho mờ mắt và đánh giá sai lầm thực chất của Khoa Học. Họ không thấy được những giới hạn của khoa học vì bản chất tương đối của khoa học và cũng không hiểu được cái niềm tin Phật Giáo là niềm tin về sự thực chứng, kết quả của sự tu tập, mang phúc lợi tới mọi chúng sinh, chứ không phải là một niềm tin mù quáng vào vài giáo thuyết hoang đường. Thật vậy, thực tế là một số Khoa học gia trong vài thập niên gần đây đã phải dùng những tư tưởng trong Phật Giáo để giải quyết những bế tắc trong việc diễn giải những hiện tượng khoa học mà họ khám phá ra, thí dụ như quan niệm "vạn pháp qui nhất", quan niệm "tương duyên, tương tức", quan niệm "dung thông" v..v.. của Phật Giáo. Và cũng thực tế là, trong nhiều bộ môn khoa học, tư tưởng Phật Giáo đã đi trước khoa học khá xa. Cho nên, phê bình là "Thấy sang bắt quàng làm họ" thì có thể đúng với tôn giáo khác, nhưng đối với Phật Giáo thì là một sự phê phán ngược chiều.
Vấn đề tinh thần Phật Giáo không xa lạ với tinh thần Khoa Học đã rõ ràng. Để vấn đề được rõ ràng hơn, chúng ta hãy duyệt qua nhận định của một vài khoa học gia nổi tiếng nhất trong Thế Kỷ 20:
Albert Einstein, cha đẻ của thuyết tương đối, đã phát biểu như sau:
“Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi ý nghĩa về Thượng đế và tránh nói đến những giáo lý và thần học. Tôn giáo ấy sẽ bao quát tất cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên cơ sở đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể mà không rời nhất thể. Phật giáo đáp ứng được những yêu cầu ấy. Nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu được với những nhu cầu hiện đại của khoa học thì đó là Phật Giáo”
[The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend personal God and avoid dogma and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the experience of all things natural and spiritual as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism.]
Ngoài ra, Einstein cũng cò đưa ra những nhận xét sau đây:
" PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN XÉT LẠI QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CẬP NHẬT HÓA VỚI NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI CỦA KHOA HỌC. PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN TỪ BỎ NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CHẤP NHẬN KHOA HỌC, BỞI VÌ PHẬT GIÁO BAO GỒM KHOA HỌC, ĐỒNG THỜI CŨNG VƯỢT QUA KHOA HỌC. Phật Giáo là một chiếc cầu nối liền tôn giáo và những tư tưởng khoa học. Chiếc cầu Phật Giáo đã kích thích con người khám phá ra những tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong chính con người và trong môi trường sống chung quanh. PHẬT GIÁO SIÊU VIỆT THỜI GIAN VÀ MÃI MÃI CÓ GIÁ TRỊ."
Trong nhận định của Albert Einstein, có một điểm quan trọng nói lên những sắc thái đặc thù của PG:
PG KHÔNG CẦN XÉT LẠI QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CẬP NHẬT HÓA VỚI NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI CỦA KHOA HỌC. PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN TỪ BỎ NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CHẤP NHẬN KHOA HỌC, BỞI VÌ PG BAO GỒM KHOA HỌC, ĐỒNG THỜI CŨNG VƯỢT QUA KHOA HỌC.
Tại sao Einstein lại nói như vậy? Chúng ta nên biết rằng Einstein đã được sinh ra và nuôi dưỡng trong cái nôi của tôn giáo Tây phương. Và một bộ óc như của Einstein thì không thể không biết đến cái lịch sử của tôn giáo Tây phương và các luận cứ mà các nhà Thần học bảo vệ tín lý của tôn giáo này đã phải đưa ra để giải thích lại hay từ bỏ những lời mà trước đây họ khẳng định đó là lời của Thượng Đế, không thể sai lầm, để đưa ra một lý thuyết phù hợp với những tiến bộ của khoa học, nhưng thật ra chỉ nhằm mê hoặc số tín đồ với những đầu óc "bảo sao tin vậy". Sau đây là vài thí dụ:
a) Quan niệm trái đất là trung tâm của vũ trụ, trái đất là thế giới duy nhất, mặt trời quay xung quanh trái đất. Đây là những lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh nên không thể sai lầm. Cũng vì vậy mà trong thế kỷ 17 Giordano Bruno bị thiêu sống chỉ vì đưa ra một nhận định khoa học rất chính xác là ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có nhiều thế giới khác nữa, và Galileo Galilei, tuy là bạn của Giáo Hoàng Urban VIII, cũng bị biệt giam cho đến chết vì dám khẳng định một sự kiện khoa học là trái đất quay xung quanh mặt trời chứ không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất như lời Thượng Đế không thể sai lầm được như trong Thánh Kinh. Sau đó khi mà giáo hội không còn quyền lực để đốt người hay giam người nữa thì các nhà Thần học liền tuyên bố: “Kinh Thánh không có ý định dạy về thiên văn, chỉ dạy về sự sáng tạo của Thượng Đế.”
b) Theo Thánh kinh thì vũ trụ được tạo dựng ra trong 6 ngày, cách đây khoảng từ 6000 tới 10000 năm, tùy theo Thánh Kinh. Ngày nay, những khám phá của khoa học cho biết tuổi của trái đất là vào khoảng 4.5 năm, và tuổi của vũ trụ là vào khoảng 13.7 tỷ năm. Các nhà Thần học bảo vệ tín lý bèn diễn giải rằng một ngày trong sự tạo dựng có thể là nhiều ngàn năm chứ không phải là ngày 24 tiếng đồng hồ như chúng ta thường biết. Đây chỉ là luận điệu ngụy biện để nuôi dưỡng các tín đồ trong vòng ngu dốt chứ đối với những người hiểu biết thì lời ngụy biện trên chỉ chứng tỏ sự xảo quyệt của các người chăn chiên. Vì Thánh Kinh viết rõ là mỗi ngày đều có sáng và tối. Và sáng và tối trên trái đất là do chuyển động quay xung quanh trục Nam Bắc của trái đất đối với mặt trời. Mặt khác, dựa trên chương Sáng Thế Ký trong Thánh Kinh, các khoa học gia bèn hỏi lại: Cây cối được tạo ra trong ngày thứ ba và mặt trời ngày thứ tư. Làm sao cây cối có thể sống được nhiều ngàn năm mà không có ánh sáng mặt trời? Các nhà Thần học bèn giải thích: Thượng đế là bậc toàn trí toàn năng, quyền phép vô cùng làm gì chẳng được. Các khoa học gia chơi khăm bèn hỏi lại: “Nếu Thượng Đế là bậc toàn năng thì tại sao lại phải nghỉ xả hơi vào ngày thứ Bảy sau khi hoàn thành sự tạo dựng trong 6 ngày? Và bắt con người cũng phải nghỉ ngày thứ bảy như Thượng đế? Nhưng con người ngày nay, một số người Việt chúng ta làm 2,3 “job” nghĩa là “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày chủ nhật”.” Câu hỏi này chưa có ai trả lời. Một mặt khác, trước khi tạo dựng ra vũ trụ ngày nay thì trong dòng thời gian vô tận trước lúc tạo dựng Thượng Đế làm gì và dùng cái gì, để tạo dựng ra vũ trụ? Các nhà Thần học bèn nổi sùng và bảo, trước khi tạo dựng cả thiên thu thì Thượng đế còn bận sáng tạo ra hỏa ngục cho những kẻ nào dám hỏi những câu hỏi xúc phạm đến quyền năng của Thượng đế như vậy. Tuy rằng hầu hết các khoa học gia và những người có đầu óc suy luận chỉ cón có cách cười trước những lời giải thích quanh co cuồng tín trên, nhưng đa số tín đồ vẫn tin và rất lấy làm an tâm và hài lòng về những lời giải thích mà họ bắt buộc phải tin là hợp lý.
Trong khi đó các khám phá mới của khoa học không có ảnh hưởng trái ngược hay mâu thuẫn đối với tư tưởng Phật Giáo, chưa kể là trong nhiều bộ môn các tư tưởng PG còn đi trước khoa học khá xa.
Học Giả Egerton C. Baptist (1915-1983), viết trong cuốn “Siêu Khoa Học của Đức Phật” (Supreme Science of the Buddha) như sau:
Phật Giáo bắt đầu ở chỗ khoa học chấm dứt. Khoa học không cho chúng ta sự bảo đảm gì ở nơi đây. Nhưng Phật Giáo có thể đáp ứng sự thách thức của thuyết nguyên tử, vì kiến thức ở trên mức bình thường của Phật Giáo bắt đầu ở nơi mà khoa học chấm dứt. Và điều này khá rõ ràng cho bất cứ ai đã nghiên cứu về Phật Giáo. Bởi vì, qua thiền định, những cấu tử cỡ nguyên tử tạo thành vật chất đã được thấy và cảm nhận, và những sự khổ, với sự sinh và diệt của chúng, đã tự tạo ra trong cái mà chúng ta gọi là linh hồn hay ngã - ảo tưởng của chấp ngã, như giáo lý của Đức Phật dạy.
[Buddhism begins where science ends
“Science can give no assurance herein. But Buddhism can meet the Atomic Challenge, because the supramundane knowledge of Buddhism begins where science leaves off. And this is clear enough to anyone who has made a study of Buddhism. For, through Buddhist Meditation, the atomic constituents making up matter have been seen and felt, and the sorrow, or unsatisfactoriness (or Dukkha), of their 'arising and passing away' has made itself with what we call a 'soul' or 'atma' - the illusion of Sakkayaditthi, as it is called in the Buddha's teaching.” ]

J Robert Oppenheimer ( 1904-1967), Vật Lý Gia Mỹ, nói rằng:

“Thí dụ, nếu chúng ta hỏi, phải chăng vị trí (electron) không thay đổi? chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng vị trí của điện tử thay đổi với thời gian? chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng điện tử đứng yên? chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng điện tử đang di chuyển? chúng ta phải trả lời “không”. Đức Phật đã trả lời như vậy khi được hỏi về tình trạng của cái ngã của con người sau khi chết; nhưng những câu trả lời này không quen thuộc trong truyền thống của khoa học trong thế kỷ 17 và 18.”
[If we ask, for instance, whether the position of the electron remains the same, we must say 'no'; if we ask whether the electron's position changes with time, we must say 'no'; if we ask whether the electron is at rest, we must say 'no'; if we ask whether it is in motion, we must say 'no'. The Buddha has given such answers when interrogated as to the conditions of a man's self after his death; but they are not familiar answers for the tradition of seventeenth and eighteenth century science.]
Sir Edwin Arnold, người nổi tiếng về cuốn thơ Ánh Sáng Á Châu (The Light of Asia), khẳng định rằng:
"Tôi thường nói, và tôi sẽ còn nói hoài, là giữa Phật-Giáo và Khoa- học tân tiến có một mối quan hệ trí thức gần gũi."
(I have often said, and I shall say again and again, that between Buđhism and modern Science there exists a close intellectual bond.)
Bertrand Russell, nhà triết-học và toán-học nổi tiếng hoàn cầu, trong cuốn Lịch sử triết học Tây Phương (History of Western Philosophy) đã viết:
"..Phật-Giáo là một tổ hợp của triết lý suy cứu và triết lý khoa học. Phật Giáo ủng hộ phương pháp khoa học và theo phương pháp này để tới một cứu cánh có thể gọi là thuần lý. Phật Giáo còn đi xa hơn khoa học vì khoa học bị giới hạn bởi những dụng cụ vật lý."
(..Buddhism is a combination of both speculative and scientific philosophy. It advocates the Scientific method and pursues that to a finality that may be called rationalistic...It takes up where science cannnot lead because of the limitations of the latter's physical instruments.)
Tiến sĩ Radhakrishnan:
"Nếu Phật Giáo hấp dẫn đối với trí óc tân tiến đó là vì Phật Giáo có tinh thần khoa học, thực nghiệm, chứ không phải là dựa trên bất cứ giáo điều nào"
(If Buddhism appealed to the modern mind it was because it was scientific, empirical and not based on any dogma.)
Tiến sĩ Graham Howe, nhà Phân Tâm Học nổi tiếng của Anh Quốc. đã nói như sau:
"Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận thức được rằng, từ 2500 năm trước, Phật Giáo đã biết về những vấn đề mới về tâm lý nhiều hơn là chúng ta thường biết tới. Họ nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông phương." (To read a little Buddhism is to realize that the Buddhists knew, 2,500 years ago, far more about modern problems of psychology than they have been given credit for. They studied these problems long ago and found the answers also. We are now rediscovering the ancient wisdom of the East.)
Paul Carus, tác giả cuốn sách nổi tiếng "The Gospel of Buddha" , một cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Nhật, Trung Hoa, Đức, Pháp, Tây Ba Nha v...v...và là người đã bảo trợ cho Daisetz Suzuki sang Mỹ để truyền bá đạo Phật mà ông gọi là "Tôn Giáo của Khoa Học" tuy ông không phải là một Phật tử. Paul Carus cho rằng: "Nếu các tôn giáo cổ Tây Phương được tinh khiết hóa bằng cách bỏ đi những sai lầm, nghĩa là những mê tín và điều vô lý trong đó, thì có thể hòa hợp được với Khoa học”. Paul Carus đã tán tụng Đức Phật như là: "Người đầu tiên thực chứng; người đầu tiên phát triển chủ nghĩa nhân đạo; người đầu tiên có tư tưởng tự do cấp tiến; người đầu tiên đả phá Thần tượng; và là nhà tiên tri đầu tiên về tôn giáo của khoa học."
Chúng ta hãy tìm hiểu tại sao những nhân vật nổi danh trên, và nhiều nhân vật khác nữa mà tôi không thể kể hết ra đây, lại đưa ra những nhận định như vậy.
Nói về Phật Giáo [PG] và Khoa Học [KH] thì trước hết chúng ta cần biết những định nghĩa của PG và của KH. Ở đây, chúng ta bị kẹt vì KH thì có thể định nghĩa được chứ PG thì khó mà có thể có một định nghĩa xác đáng. Vậy thì, trước hết chúng ta hãy xét đến định nghĩa của KH và rồi xem xem trong cái định nghĩa này nó có những tương quan gì với Phật Giáo.
ĐỊNH NGHĨA CỦA KHOA HỌC.
Mở cuốn tự điển Merriam Webster ra chúng ta thấy có 5 định nghĩa về KH:
1. Kiến thức thâu thập được bằng khảo sát và thực hành (Knowledge obtained by study and practice)
2. Bộ kiến thức được hệ thống hóa (Department of systematized knowledge)
3. Nghệ thuật hay sự khéo léo (Art and Skill)
4. Một ngành học liên hệ đến sự quan sát và hệ thống hóa các sự kiện, nhất là liên hệ với sự thiết lập những định luật tổng quát có thể kiểm chứng được, chủ yếu bằng quy nạp và giả thiết (A branch of study concerned with observation and classification of facts, especially with the establishment of verifiable general laws, chiefly by induction and hypotheses)
5. Kiến thức chuyên biệt tích tụ được hệ thống hóa và công thức hóa dựa vào sự khám phá ra những chân lý tổng quát hay sự vận hành của các định luật tổng quát (Specifically, accumulated knowledge systematized and formulated with reference to the discovery of general truths or the operation of general laws)
Những kiến thức liên hệ tới thế giới vật chất : Khoa học thiên nhiên (Natural Science)
TINH THẦN KHOA HỌC:
- Dùng đầu óc, luận lý và thực nghiệm để ra khỏi sự ngu tối. (Phật Giáo dùng trí tuệ và thực chứng để phá bỏ vô minh: Người ta thường bảo rằng Phật giáo có một lưỡi gươm duy nhất để diệt một kẻ thù duy nhất: lưỡi gươm này là lưỡi gươm trí tuệ, và kẻ thù này là vô minh.)
- Tinh thần rộng rãi. Gửi học trò đi học các Thầy giỏi. (Khi xưa, các bậc cao Tăng trong Phật Giáo thường gửi đệ tử của mình đi học thêm từ các bậc cao Tăng khác ở Tông phái khác)
- Tinh thần khách quan, tôn trọng sự thật, không để cho thiên kiến chi phối. (Như thực tri kiến)
- Thảo luận hòa hoãn để đi tới chân lý, không khích bác nhau (Khẩu Hoà vô tranh)
- Dung hòa ý kiến, tham khảo để cùng đưa ra một kết luận (Ý hòa đồng duyệt)
- Chia sẻ những kiến thức để đi tới chân lý (Kiến hòa đồng giải)
Nhưng lẽ dĩ nhiên trong giới khoa học gia không có những chủ trương như sau của Phật Giáo:
- Thân Hòa Đồng Trú
- Giới Hòa Đồng Tu
- Lợi Hòa Đồng Quân
VÀI THÍ DỤ VỀ TƯ TƯỞNG PG ĐÃ ĐI TRƯỚC KHOA HỌC:
Ở trên tôi đã trích dẫn nhận định của Tiến sĩ Graham Howe, nhà Phân Tâm Học nổi tiếng của Anh Quốc. như sau:
"Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận thức được rằng, từ 2500 năm trước, Phật Giáo đã biết về những vấn đề về tâm lý nhiều hơn là về những vấn đề hiện đại về tâm lý học chúng ta thường biết tới. Họ nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông phương."
(To read a little Buddhism is to realize that the Buddhists knew, 2,500 years ago, far more about modern problems of psychology than they have been given credit for. They studied these problems long ago and found the answers also. We are now rediscovering the ancient wisdom of the East.)
Không phải vô căn cứ mà Tiến sĩ Graham Howe viết như vậy. Nếu chúng ta biết về Duy-Thức Học trong Phật Giáo thì chúng ta thấy rằng các khoa học gia chỉ dùng có 16 phần trăm [16%] của số 100 Pháp được phân loại thành 8 Tâm Pháp, 51 Tâm-Sở-Hữu Pháp, 11 Sắc Pháp, 24 Tâm-Bất-Tương-Ưng Hành Pháp, và 6 Vô-Vi Pháp (Xin đọc Đại-Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận), nghĩa là các khoa-học-gia chỉ xử dụng tới 11 Sắc Pháp trong đó có 5 căn là nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn, và thân căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân thể); và 6 trần là sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần, và Pháp trần (hình tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác do tiếp xúc, và bóng dáng của 5 trần trên còn lưu lại trong ý thức khi các căn không còn tiếp xúc trực tiếp với trần nữa), cộng với 5 tâm pháp trong số 21 tâm-bất-tương-ưng hành pháp là thời gian, phương hướng, vận tốc di chuyển, số lượng, và thứ tự (thời, phương, thế tốc, số, và thứ đệ). Ở đây tôi không có ý định đi sâu vào thiên luận 100 Pháp đại thừa mà chỉ muốn nói lên điểm cốt yếu như sau: khi mà khoa học không thể tiến hơn được nữa vì những giới hạn tự tại của 5 căn 6 trần và của những dụng cụ đo lường thì Phật Giáo vẫn tiếp tục đi xa hơn, bởi lẽ Phật Pháp, ngoài sự khảo sát những đối tượng vật chất còn chú trọng nhiều đến những vấn đề tâm linh, cho nên đã vượt qua, đi ra ngoài những giới hạn vật lý của khoa-học. Do đó chúng ta có thể nói Phật Giáo là một Siêu-Khoa-Học (Super-science) như học giả Ergeton Baptist đã nhận định, được thành lập trên căn bản trí tuệ Bát Nhã (trí tuệ nhận thức được thực tướng của vạn Pháp). Trong Phật Giáo, Duy-Thức Học cho chúng ta một hệ thống triết lý, phân tâm học rất đầy đủ và tiến bộ hơn bất cứ hệ thống nào trong khoa học hiện đại.
Sau đây, tôi xin nêu thêm vài thí dụ về cái biết của Phật Giáo như được viết trong Kinh Điển Phật Giáo:
1. Về thế giới vô cùng nhỏ: Chúng ta đều biết rằng, khi xưa Đức Phật thường khuyên các đệ tử trước khi uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho các vi chúng sinh có trong nước. Người còn khẳng định trong mỗi bát nước có tới 84000 sinh vật nhỏ nhoi mà mắt thường chúng ta không thể nhìn thấy được. Chúng ta nên hiểu con số 84000 trong Phật Giáo có nhiều ý nghĩa và một trong những ý nghĩa này là tượng trưng cho một con số lớn chứ không phải là một con số chính xác. Hơn 21 thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 16, năm 1595, các khoa học gia đã phát minh ra cái kính hiển vi đầu tiên và nhờ đó đã có thể nhìn thấy trong một giọt nước có một số lớn các vi sinh vật mà mắt thường không thể nhìn thấy được.
Kính Hiển Vi Meiji Techno MT4200
2. Về Thế Giới Vô Cùng Lớn: Quan niệm của Phật Giáo về vũ trụ như sau: thế giới chúng ta đang sống không phải là duy nhất và cũng không phải là trung tâm vũ trụ. Ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có rất nhiều thế giới khác, và Phật giáo phân loại các thế giới thành 3 loại: Tiểu Thiên Thế Giới, Trung Thiên Thế Giới, và Đại Thiên Thế Giới. Danh từ thế giới trong Phật -giáo chỉ một thiên thể (thí dụ như trái đất) hoặc một tập hợp các thiên thể được coi như thuộc một nhóm (thí dụ như thái-duơng-hệ mà trái đất là một hành tinh trong đó). Vậy, một ngàn thế giới họp thành một Tiểu Thiên Thế Giới, một ngàn Tiểu Thiên Thế Giới họp thành một Trung Thiên Thế Giới, và một ngàn Trung Thiên Thế Giới họp thành một Đại Thiên Thế Giới. Vậy, lấy đơn vị là một hệ thống tương tự như hệ thống Thái Dương Hệ và gọi là thế giới thì Tiểu Thiên Thế Giới gồm có khoảng một ngàn thế giới, Trung Thiên Thế Giới gồm khoảng một triệu thế giới , Đại Thiên Thế Giới gồm khoảng một tỷ thế giới v..v.. Đó là quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo từ hơn 2500 năm về trước. Nhưng sau đó 22 thế kỷ, vào thế kỷ thế 17, Tây phương vẫn còn chưa thoát khỏi quan niệm sai lầm về trời tròn đất vuông, trái đất được coi là trung tâm vũ trụ, và rằng mặt trời quay xung quanh trái đất như đã viết trong Thánh Kinh.
Trở lại quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo, chúng ta thấy rằng quan niệm này hầu như tương hợp hoàn toàn với những kiến thức ngày nay của những nhà thiên văn (astronomers) hay những nhà vật-lý-học về thiên thể (astrophysicists), và đã đi trước khoa-học nhiều thế kỷ. Một Tiểu Thiên Thế Giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một thiên hà (galaxy) gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có sinh vật trên đó. Thí dụ như giải ngân hà (Milky Way) hay M31, hay chòm sao (constellation) Andromeda. Một Trung Thiên Thế Giới có thể so sánh với một chùm thiên hà (galactic cluster) thí dụ như chùm Coma Berenices, và một Đại Thiên Thế Giới có thể so sánh với cái mà Hannes Alfven gọi là siêu thiên hà (metagalaxy) ở trong Đại Vũng (Big Dipper) của Tiểu Ursa (Minor Ursa) trong đó có ít ra là cả triệu thiên hà. Cho tới nay, vì những giới hạn tự tại của những dụng cụ quan sát cho nên các khoa học gia chưa thể đi xa hơn trong việc khảo sát vũ trụ. Nhưng không phải vì những giới hạn kỹ thuật này mà vũ trụ cũng bị giới hạn theo, và nay chúng ta đã hiểu tại sao Đức Phật lại "bỏ ngỏ" quan niệm về vũ trụ hữu hạn hay vô hạn. Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thấy rõ khả năng vô tận của con người, và rằng Phật Pháp không phải là những giáo điều cứng ngắc không bao giờ thay đổi. Và đây cũng chính là tinh thần khoa học hiện đại, không có gì có thể coi như là vĩnh cửu, bất biến.

Bức hình trên do NASA ghép một số các mảnh thiên hà trong vũ trụ. Từ bên trái hàng trên đên bên mặt hàng dưới: M61, NGC 4449, NGC 4725, NGC 5068, NGC 5247, and NGC 5775/5774. Đa số hình xoắn ốc gần giống như giải ngân hà Milky Way của chúng ta.

Nói đến quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo thì chúng ta không thể bỏ qua Kinh Hoa-Nghiêm, phẩm Thế Giới Thành Tựu. Trong phẩm này, Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới: nhân duyên khởi, chỗ trụ nương, hình trạng, thể tánh, trang nghiêm tánh, thanh tịnh tánh, Phật xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt, và môn vô sai biệt. Để cho vấn đề tương hợp với khoa học được rõ ràng, sau đây tôi xin luận về hai điểm : hình trạng và kiếp trụ các thế giới. Chúng ta hãy xét đoạn kinh văn sau đây:
Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn....hoặc hình như nước xoáy....hoặc hình như hoa ... có vi trần số hình sai khác như vậy."
Rồi trong phẩm tiếp theo, phẩm Hoa Tạng Thế Giới, Phổ Hiền Bồ Tát lại tuyên thuyết: "Chư Phật tử! Tất cả thế giới chủng đó hình trạng đều khác nhau: hoặc hình núi Tu Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe...hoặc hình hoa sen...có vi trần số hình trạng như vậy." ("Kinh Hoa-Nghiêm", Thích Trí Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản)
So sánh với những hình trạng của các chòm sao, giải thiên hà, ngân hà khám phá bởi khoa học ngày nay chúng ta thấy Phật giáo đã mô tả hình trạng của chúng một cách vô cùng chính xác. Thí dụ như các hình như bánh xe, nước xoáy chúng ta có thể quan sát được trong các chòm sao như Cetus, Pegasus và Hercules, hình sông là giải ngân hà (Milky Way) và nhiều thiên hà khác, hình dạng như hoa là những khối tinh vân trong khoảng không gian liên-thiên-hà (intergalactic clouds of gas) có chứa hàng tỷ ngôi sao v...v... Thật tôi không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề có kính thiên văn, dù thô sơ nhất, mà Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã có những hiểu biết chính xác về vũ trụ như trên. Có cách giải thích nào khác là chúng ta phải tin rằng, do Thiền Định và vì đã giác ngộ hoàn toàn, cho nên các Ngài đã nắm vững được cơ cấu huyền bí của vũ trụ, nếu không thì làm sao có thể biết được những điều như trên. Và chúng ta cũng nên nhớ là những điều đức Phật và các Bồ Tát chọn để tuyên thuyết cho người đời chẳng qua cũng chỉ là một nắm lá trong tay so với số lá cây trong rừng.
Sau đây, tôi xin đưa ra vài hình ảnh mà các khoa học gia đã chụp được trong vũ trụ, và quý vị sẽ thấy những mô tả về hình trạng thế giới trong Kinh Hoa Nghiêm chính xác như thế nào.
Hình xoay chuyển của Thiên Hà NGC 523 Sculptor

Hình bánh xe của Thiên Hà Andromeda
Hình nước xoáy của Thiên Hà [The Spiral Galaxy NGC 2997]

Hình hoa nở của Thiên Hà Trifid
Hình vòng nhẫn của khối tinh vân 250px-M57_The Ring Nebula

Hình núi Tu Di của Thiên Hà M104: The Sombrero Galaxy

Tiếp theo, về kiếp trụ của các thế giới, Kinh văn viết rằng:
"Lúc đó Phổ Hiền Bồ-Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Nên biết thế giới hải có thế giới hải vi trần số kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp trụ, hoặc có vô-lượng kiếp trụ, hoặc có vô biên kiếp trụ, hoặc có vô đẳng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ kiếp trụ, hoặc có bất khả xưng kiếp trụ, hoặc có bất khả tư kiếp trụ, hoặc có bất khả lượng kiếp trụ, hoặc có bất khả thuyết kiếp trụ, ..có vi trần số kiếp trụ như vậy."
Rồi trong bài kệ để tuyên lại nghĩa này Bồ Tát Phổ Hiền có giải thích bằng một câu: "Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số, Bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng." Chỉ một câu "bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng" cũng đã giải quyết vấn đề "thiên sai vạn biệt" trong vũ trụ. Thật là đầy đủ, thật là rốt ráo, thật là chính xác. Nếu chúng ta đi sâu vào một chút trong đoạn kinh văn trên, chúng ta sẽ thấy Phật Giáo đã đi trước khoa học như thế nào.
Phật giáo phân biệt: Tiểu Kiếp có 16 triệu 8 trăm ngàn năm, Trung Kiếp có 336 triệu năm, và Đại Kiếp có 1 tỷ 344 triệu năm. Theo khoa học hiện nay thì một ngôi sao (coi như là một thế giới) mà chất lượng (mass) càng nặng thì đời sống của ngôi sao càng ngắn. Do đó có những ngôi sao chỉ "sống" được từ 1 tới vài tỷ năm và người ta đã tính được rằng một ngôi sao có chất lượng nhẹ hơn những ngôi sao trên khoảng 90 phần trăm thì ngôi sao này có thể sống tới hàng ngàn tỷ năm. Điều này rất phù hợp với câu kệ trên của Phổ Hiền Bồ Tát, có thế giới chỉ tồn tại một kiếp, có thế giới tồn tại vô số kiếp v...v....
Thứ đến, những danh từ như a-tăng-kỳ, vô lượng, vô biên,...bất khả thuyết có vẻ như mơ hồ và không rõ ràng như những con số trong thời đại khoa học. Thật ra không phải vậy, vì trong phẩm A-Tăng-Kỳ, Kinh Hoa Nghiêm ta đọc được như sau, tôi xin đánh số cho nó rõ ràng hơn:
Phật nói: Này thiện nam tử!
1. Một trăm Lạc Xoa làm một Câu Chi.
2. Câu Chi lần Câu Chi làm một A-Giu-Đa
3. A-giu-Đa lần A-Giu-Đa làm một Na-Do-Tha
4. Na-Do-Tha lần Na-Do-Tha làm một Tần-Bà-La
và tiếp tục như vậy tất cả là 123 lần, trong đó số 104 là A-Tăng-Kỳ, số 106 là Vô Lượng, số 108 là Vô Biên, số 110 là Vô Đẳng, số 112 là Bất-Khả-Sổ, số 114 là Bất-Khả-Xưng, số 116 là Bất-Khả-Tư, số 118 là Bất-Khả-Lượng, và số 120 là Bất-Khả-Thuyết.
Chúng ta biết rằng khoa học ngày nay dùng ký hiệu lũy thừa để viết những con số lớn. Thí dụ như 1 triệu là con số 1 với 6 con số 0 đằng sau, 1 000 000, theo ký hiệu điện toán được viết như sau: 10^6 và đọc là 10 lũy thừa 6; 1 tỷ gồm có 9 số 0 và được viết là 10^9 (billion), lớn hơn nữa là 10^12 (1 ngàn tỷ hay trillion), 10^15 (1 triệu tỷ hay zillion) và khoa học chưa có những danh từ riêng để chỉ những con số lớn hơn. Tiếng Việt thì chỉ tới số tỷ là cao nhất.
Theo Kinh Phật thì 1 Lạc Xoa là 100 ngàn, nghĩa là 10^5. Như vậy 1 Câu Chi là 10 triệu, nghĩa là 10^7; 1 A-Giu-Đa là 100 ngàn tỷ, nghĩa là 10^14; 1 Na-Do-Tha là 10 tỷ tỷ tỷ, nghĩa là 10^28. Tiếp tục tính ra ta sẽ thấy 1 A-Tăng-Kỳ là khoảng, 10^(7.09… x 10^31), nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi hơn 7000 tỷ tỷ tỷ con số 0 ở đằng sau, một con số vô cùng lớn nhưng vẫn có một tên riêng. Chúng ta có thể suy ra:
Vô Lượng = 10^(2.83… x 10^32), Vô Biên = 10^(1.13… x 10^33),...
và Bất-Khả-Thuyết = 10^(4.65… x 10^36) nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi khoảng hơn 4 tỷ tỷ tỷ tỷ con số 0 đứng đằng sau.
Những con số khoa học hiện đại dùng tới có lẽ chỉ vào khoảng 10^40 nghĩa là chỉ có 40 con số 0 đứng sau. Chúng ta thấy ngay rằng, ngay cả về phương diện toán số, Phật giáo đã đi trước khoa học khá xa về sự biểu thị chính xác những con số và đã có quan niệm về những con số vô cùng lớn, lớn ngoài mức tưởng tượng của các khoa học gia hiện đại.
Quan niệm nhìn vũ trụ một cách toàn ký (The holographic view of the universe) là một quan niệm mới trong khoa học hiện đại, bắt nguồn từ sự khám phá ra kỹ thuật chụp hình toàn ký vài thập niên trước đây. Kỹ thuật chụp hình toàn ký này đã giúp cho một số khoa học gia giải quyết được một số khúc mắc trong những công cuộc khảo cứu của họ về ký ức của con người cũng như trong ngành vật lý các hạt nhỏ (particle physics). Các khoa học gia này, từ những kết quả khảo cứu mới nhất, đã đưa ra những bằng chứng và đề nghị rằng thế giới của chúng ta ngày nay và mọi thứ trong đó chẳng qua chỉ là những hình ảnh không thực, là những dự phóng của một thực thể vượt ra ngoài thực thể của con người và vượt ra ngoài không gian và thời gian.
Hai khoa học gia được biết đến nhiều nhất trong quan niệm mới này là nhà vật-lý học David Bohm, rất nổi tiếng trong ngành vật lý nguyên lượng (quantum mechanics), thuộc đại học Luân Đôn, Anh quốc, và Karl Pribam, một nhà thần-kinh sinh-lý-học (neurophysiologist) thuộc đại học Stanford, California. Điều đặc biệt là Bohm và Pribam, tuy khảo cứu về hai ngành hoàn toàn khác biệt, cùng phải dựa vào quan niệm toàn ký để giải thích những kết quả khảo cứu của mình. Bohm khảo sát về sự tương tác của các hạt nhỏ trong ngành vật lý tiềm nguyên tử (subatomic physics), và Pribam khảo sát về ký ức của con người trong ngành thần-kinh sinh-lý học. Không đi vào chi tiết, hai khoa học gia trên đều nhận thấy rằng các lý thuyết cũ trong khoa học không đủ để giải thích mọi vấn đề trong các ngành khảo cứu của họ, và khuôn mẫu toàn ký (holographic paradigm) đã giúp họ giải thích một cách hợp lý các kết quả khoa học của họ.
Nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta có thể nói ngay rằng khuôn mẫu toàn ký chẳng qua chỉ là sự thuyết giải khoa học của một phần nhỏ những quan niệm đặc thù trong Phật Giáo đã có từ nhiều thế kỷ trước như tương duyên, tương tức, tương nhập, tương liên, một là tất cả v...v... Nhưng trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu đại cương thế nào là khuôn mẫu toàn ký.
Toàn ký (holography) là một kỹ thuật tạo hình ảnh bằng một loại ánh sáng đặc biệt thường được biết tới tên quen thuộc là ánh sáng LASER và hiện tượng giao thoa (interference) quen thuộc của các sóng. LASER là những chữ đầu của "Light Amplification by Stimulated Emission of Radiation", có nghĩa là "ánh sáng khuếch đại do phát xạ kích thích của bức xạ", hay gọn hơn: "ánh sáng khuếch đại do bức xạ kích thích".
Một phim ảnh toàn ký được tạo ra khi một tia sáng LASER đơn sắc được tách ra làm hai tia riêng biệt. Tia thứ nhất được chiếu trên vật muốn chụp hình, thí dụ một bức tượng Phật, dội lại và hợp với tia thứ hai tạo thành một mô thức giao thoa và được ghi trên một tấm phim ảnh.
Dùng mắt thường mà nhìn thì hình giao thoa trên tấm phim, có tên khoa học là “toàn ký đồ”, không có gì là giống bức tượng Phật cả, mà chỉ là một số mô hình gồm những vòng đồng tâm tương tự như những vòng sóng lăn tăn trên mặt nước khi ta ném một nắm sỏi xuống nước. Hình sau đây chỉ là một thí dụ về toàn ký đồ chứ không phải là toàn ký đồ của bức tượng Phật.
Một Toàn Ký Đồ [A Hologram Pattern]
Nhưng khi ta chiếu qua tấm phim này bằng một tia LASER khác, hoặc đôi khi chỉ cần một ngọn đèn thật sáng, một cái hình nổi của bức tượng Phật sẽ hiện ra. Hình này trông y như thật, ta có thể đi vòng xung quanh hình tượng Phật này và thấy đó là một bức tượng thật, bất kể nhìn dưới góc cạnh nào. Nhưng nếu ta muốn nắm bắt hình tượng Phật này thì ta sẽ không thành công bởi vì khi ta đưa tay vào chỗ hình tượng Phật này thì sẽ không thấy gì, vì thật ra đó chỉ là một ảo ảnh. Ngày xưa Phật đã chẳng nói, Phật thì vô hình vô tướng, làm sao mà nắm bắt được, và Tâm Kinh đã chẳng dạy là "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc" hay sao?
Nhưng điểm kỳ diệu của kỹ thuật toàn ký là, nếu ta cắt tấm phim ảnh ra làm hai, rồi chiếu lên mỗi nửa tấm phim này bằng một tia LASER, ta sẽ thấy mỗi nửa tấm phim sẽ lại tạo ra hình ảnh của toàn phần tượng Phật. Cứ tiếp tục chia cắt như vậy, mỗi mảnh nhỏ của tấm phim vẫn tạo ra nguyên hình của toàn thể bức tượng tuy càng ngày càng mờ nếu mảnh phim càng ngày càng nhỏ hơn. Nói tóm lại, kỹ thuật toàn ký đã khám phá lại một phần của một quan niệm rất quen thuộc trong Phật Giáo: một là tất cả. Để cho sự so sánh được rõ ràng hơn, có lẽ chúng ta nên đi thêm vào vài chi tiết trong công cuộc khảo cứu của Pribam và Bohm.
Pribam khám phá ra rằng, ký ức của con người được phân bố đều trong bộ óc và mỗi phần của bộ óc chứa trọn vẹn những thông tin mà bộ óc ghi nhận. Nếu ta cắt bỏ một phần các vùng ký ức, có khi là một phần khá lớn, ở trong óc một người thì ký ức của người đó không bao giờ mất đi một phần, và nếu người đó nhớ một cái gì đó thì bao giờ cũng nhớ trọn vẹn chứ không bao giờ chỉ nhớ một phần, thí dụ như chỉ nhớ 1 phần những người trong gia đình, hay một phần của một khuôn mặt quen thuộc, hay một phần của một câu chuyện mà người đó đã được kể cho nghe.
Khảo sát về sự tương tác giữa các hạt nhỏ trong ngành vật lý tiềm nguyên tử (subatomic physics), Bohm đưa ra nhận định như sau: Thuyết tương đối, quan trọng hơn nữa, cơ học nguyên lượng (quantum mechanics) đề nghị rằng, người ta không thể phân tích thế giới thành những phần riêng biệt và độc lập. Hơn nữa, mỗi phần có vẻ như bằng cách nào đó liên hệ tới mọi phần khác: chứa đựng lẫn nhau hoặc bao hàm nhau.
Chúng ta thấy rằng kỹ thuật toàn ký đã tạo ra một căn bản giải thích những kết quả khảo cứu của Pribam và Bohm. Và Pribam đã đặt một câu hỏi: Nếu các hình ảnh của thực tại ghi trong óc của chúng ta không phải là một hình ảnh như chúng ta thường thấy mà là một toàn ký đồ (hologram), vậy thì toàn ký đồ là cái gì?
Vấn đề khúc mắc là ở chỗ nếu ta chụp hình toàn ký một cảnh, thí dụ một đám người ngồi quanh một cái bàn, và khi rửa phim ra ta thấy không phải là một đám người mà lại là những hình giao thoa, vậy thì thực tại là cái gì? Là những hình ảnh thông thường chúng ta thấy ở ngoài đời ghi nhận bởi quan sát viên/nhiếp ảnh viên hay là những hình mờ ảo giao thoa ghi bởi máy chụp hình/óc con ngườỉ? Pribam ý thức được rằng cái mẫu về "óc toàn ký" với những các kết luận hợp lý của nó đã dẫn đến một vấn nạn về thế giới của thực tại khách quan; thế giới của sông, núi, cây cỏ có thể là không hiện hữu, ít ra là không hiện hữu như chúng ta thường tưởng là hiện hữu. Phải chăng quan niệm về ảo tưởng (maya) của những huyền nhiệm gia cách đây nhiều thế kỷ là đúng, và những cảnh xum la vạn tượng chẳng qua chỉ là vùng rộng lớn các tần số (vast frequency domain) biến đổi thành những sự vật SAU KHI nhập vào các giác quan của con người. Nhưng lãnh vực khảo cứu của Pribam chỉ về ký ức con ngưòi, và khi biết được những kết quả khảo cứu của Bohm, không những Pribam tìm ra được giải đáp cho những thắc mắc trên mà còn biết được rằng, theo Bohm, toàn thể vũ trụ chỉ là một toàn ký đồ (hologram).
Nói một cách vắn tắt thì quan niệm về vũ trụ của Bohm như sau: thực tại mà chúng ta thấy hàng ngày thực ra chỉ là một loại ảo tưởng, giống như một hình ảnh toàn ký. Đằng sau cái thực tại này là một sự xếp đặt sâu sắc hơn của sự hiện hữu mà ta có thể coi như là bản chất rộng lớn của một thực tại từ đó sinh ra mọi sự vật tạo thành thế giới vật chất của chúng ta, giống như một mảnh phim toàn ký tạo ra một toàn-ký-đồ. Bohm gọi cái thực tại sâu sắc này là cấp ẩn (implicate order) hay sự xếp đặt ẩn và những thứ chúng ta thấy thường ngày thuộc cấp hiện (explicate order) hay sự xếp đặt hiện của mọi vật. Nói một cách tóm tắt dễ hiểu thì mọi vật đều sinh ra từ một căn bản chung, và căn bản chung này khi nhập vào giác quan của con người thì sinh ra mọi sai biệt mà chúng ta thường thấy ở ngoài đời.
Nhưng có ai ngờ rằng, những quan niệm về vũ trụ dựa trên khuôn mẫu toàn ký trên đã là những quan niệm đặc thù của Phật Giáo từ bao thế kỷ trước đây. Thật vậy, quan niệm về Chân Không Diệu Hữu, và quan niệm về Tâm Chân Như và Tâm Sai Biệt của Bồ Tát Mã Minh trong Đại Thừa Khởi Tín Luận không khác gì quan niệm toàn ký của Bohm ở trên, nếu không muốn nói là còn sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Và, nếu chúng ta quen thuộc với kinh điển Phật Giáo, nhất là kinh Hoa Nghiêm, thì chúng ta sẽ thấy rằng khuôn mẫu toàn ký và những quan niệm của Pribam và Bohm thực sự đã chậm mất 25 thế kỷ. Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta hãy đọc phớt qua chút ít về Kinh Hoa Nghiêm.
Trước hết, chúng ta hãy đọc vài lời tựa của Hòa Thượng Thích Đức Niệm ở đầu mỗi cuốn trong bộ kinh Hoa Nghiêm do Thích Trí Tịnh dịch:
"Kinh Hoa Nghiêm là bộ Kinh Đại Thừa, là vua trong các Kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện Pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện của Phật.
...Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sanh. Tâm là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt, hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi, cái này có cái kia có và ngược lại, như lưới đế châu. Tâm chơn thì pháp giới tánh với tâm là một, vạn vật đồng nhất thể....Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ cho chúng sanh thấu rõ cội nguồn của xum la vạn tượng do mê thức vọng tưởng nghiệp duyên hình thành, các pháp hiện hành trong vũ trụ là huyễn hóa, như hoa trong gương, như trăng dưới nước. Tất cả vạn pháp trong pháp giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm khắp cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn pháp. Thể tánh của tâm nhiếp thâu tất cả. Tất cả là một, một là tất cả."
Vài lời trên đã tóm tắt phần nào những tinh túy của Kinh Hoa Nghiêm. Thật vậy, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Phẩm Nhập Pháp Giới, lời của nữ nhân Thích Ca Cù Ba giảng một pháp môn giải thoát cho Thiện Tài đồng tử:
"Này Thiện Nam Tử!.. Ta quán thân của Bồ Tát, nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thấy vô lượng vô biên thế giới rộng lớn, những sự an trụ, trang nghiêm, hình trạng, những núi, đất, mây, danh hiệu, Phật xuất thế, những đạo tràng, chúng hội, diễn thuyết những khế kinh, những sự quán đảnh, các thừa, những phương tiện, những thanh tịnh.
Lại mỗi niệm nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát thường thấy vô biên phật hải, những sự ngồi đạo tràng, những thần biến, thuyết pháp, thuyết kinh hằng không gián đoạn.
Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát thấy vô biên chúng sanh hải: những trụ xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn tánh...."
Với lời tựa của Hòa Thượng Thích Đức Niệm và lời trích dẫn trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy rằng quan niệm toàn ký của các khoa học gia đã dựa vào các tư tưởng của Phật Giáo rất nhiều. Nhưng xét cho kỹ thì quan niệm toàn ký trong khoa học chỉ có tác dụng giải thích một số khúc mắc trong khoa học một cách đại cương trong khi quan niệm về tương thông, tương tức, hay dung thông vô ngại bao trùm mọi pháp giới. Nếu chúng ta đọc đoạn cuối của Kinh Hoa Nghiêm , khi Thiện Tài đồng tử vào trong lâu các Tỳ Lô Giá Na và rồi sau đó gặp Phổ Hiền Bồ Tát thì chúng ta sẽ thấy quan niệm về một vi trần chứa đủ thiên sai vạn biệt trong vũ trụ đã được trình bày với đầy đủ chi tiết và kèm vào đó những công hạnh của Bồ Tát. Và đây chính là điểm vi diệu của Kinh Phật vì ngoài việc dùng để giải thích những sự việc ngoài đời như khoa học, điểm chính yếu là cái dụng của Kinh Phật như sẽ được tóm tắt sau đây.
Chúng ta biết rằng kinh căn bản trong Hoa Nghiêm Tông là Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm bao gồm toàn bộ giáo lý Phật Giáo một cách hòa hợp, đa dạng; đó là một kinh được coi là cao nhất trong mọi kinh Phật ở Á Châu. Kinh trình bày một môn siêu hình học vô cùng tiến bộ và là một tập hợp phát triển tư tưởng một cách kỹ lưỡng, tinh tế để dẫn con người tới toàn giác.
Nhưng muốn nhận định đúng giá trị của Kinh Hoa Nghiêm chúng ta phải xét đến cái mặt dụng của Kinh này. Vì chúng ta đã biết, trong Phật Giáo, Kinh Phật thật là vô ích nếu chúng ta chỉ để ý tới phần lý thuyết mà không áp dụng chúng vào đời sống thường ngày. Các thiền sư thường ví những người tìm hiểu kinh mà không thực hành như là những người "đọc thực đơn mà không ăn" hay là "đếm tiền của thiên hạ trong ngân hàng".
Nói một cách ngắn gọn, Kinh Hoa Nghiêm cho chúng ta một tập hợp những phương thức tu tập - một lối nhìn sự vật trên mọi góc cạnh, từ đó khám phá ra sự hòa hợp và bổ túc lẫn nhau tiềm ẩn sau những khác biệt và mâu thuẫn biểu kiến của mọi sự vật ở trên đời. Giá trị của sự tu tập này là sự phát triển một quan điểm tròn đầy, lành mạnh, giúp ta khám phá ra sự thống nhất của mọi Pháp nhưng không phủ nhận sự khác biệt của các Pháp. Từ quan điểm này, con người vượt qua được những ngăn ngại tâm linh do sự chấp vào các sai biệt của vạn vật mà sinh ra. Quan niệm về Chân Đế và Tục Đế của Bồ Tát Long Thọ trong Đại Trí Độ Luận sẽ giúp chúng ta tu tập trong Chân Đế nhưng không quên Tục Đế. Từ đó, với sự phát triển bồ đề tâm, cái quan điểm viên dung này vận hành bất tuyệt trên cách hành xử của các bồ tát trong công cuộc tự giác, giác tha. Một khi hội nhập được vào ý tưởng dung thông vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm, với căn bản là bồ đề tâm, hành giả sẽ không còn bị ngăn ngại bởi bất cứ cái gì về cách hành xử trong Bồ Tát Đạo. Hành giả sẽ tự do hành xử để giúp chúng sinh ra khỏi chỗ mê mờ của những giáo lý những điều mê tín không còn thích hợp với sự tiến bộ tri thức của con người ngày nay.
Bài trên đây chỉ có mục đích chứng tỏ rằng các tư tưởng trong Phật Giáo đã đi trước và sâu sắc hơn các quan niệm của khoa học hiện đại nhiều, hiển nhiên tôi không thể đi vào chi tiết của khoa học cũng như Kinh điển Phật Giáo trong một bài viết ngắn. Bạn đọc nào muốn hiểu thêm về bồ đề tâm hay những quan niệm như tương duyên, tương tức, dung thông vô ngại trong Phật Giáo xin hãy chăm đi lễ Chùa và thụ huấn quý Thày. Tôi bảo đảm là các bạn sẽ không cảm thấy lãng phí thì giờ trong việc tìm hiểu kinh Phật vì Kinh Phật là một kho tàng vô giá và vô tận để phát triển trí tuệ con người thay vì giam hãm đầu óc con người trong những ngục tù tâm linh¨


Đăng bởi trung23:12

Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

Cây thuốc lạ của người từng bị hư thận

Filled under:

            
Thứ Hai, 15/09/2014 09:00 SA báo Phú Yên: http://www.baophuyen.com.vn/89/120641/cay-thuoc-la-cua-nguoi-tung-bi-hu-than.html


Anh Lạc giới thiệu về cây thuốc bí ẩn - Ảnh: Y.LAN
Bị hư cả hai quả thận, tiền bạc lại không có, anh Ngô Sĩ Lạc ở thôn Nguyên Trang, xã Sơn Nguyên (huyện Sơn Hòa) cứ ngỡ mình sẽ sớm lìa khỏi cuộc đời. Trong hoàn cảnh bế tắc, anh tìm uống thuốc nam và hết bệnh nên hăm hở chia sẻ cây thuốc lạ lùng này với nhiều người, mong giúp họ tìm lại được sức khỏe. 

CÂY THUỐC NAM KỲ LẠ

Năm 1993, anh Ngô Sĩ Lạc mắc bệnh thận. Căn bệnh này suýt nữa thì cướp đi mạng sống của anh. “Tôi điều trị ở bệnh viện tại Phú Yên, vô bệnh viện TP Hồ Chí Minh rồi ra bệnh viện ở Vinh, Nghệ An. Bác sĩ đều nói cả hai quả thận bị hư, tôi phải ghép thận, nếu có tiền”.

Anh Lạc làm gì có tiền, có thận để mà ghép! Năm 1984, từ Diễn Châu (Nghệ An), anh đến huyện miền núi Sơn Hòa lập nghiệp. Rồi anh đi bộ đội, sang chiến trường Campuchia. Bị bệnh sốt rét hành hạ, anh Lạc xuất ngũ một năm sau đó. Trở về Sơn Hòa, anh lập gia đình. Hai vợ chồng mưu sinh trên rẫy. Đến khi anh Lạc ngã bệnh, vợ chồng anh phải chuyển nhượng 1,5ha đất rẫy để chạy chữa, thuốc thang. Không có tiền ghép thận, anh đành buông xuôi, mặc cho số phận. Anh được đưa về nhà và bị căn bệnh quái ác hành hạ, dẫn đến phù, co rút hai chân, không thể đi được. Khi đó, người đàn ông sinh năm 1967 này yếu đến mức được vợ và bạn dìu hai bên, cũng không còn sức để đứng lên.

Cứ ngỡ mình sẽ chết thì ngày nọ, anh Lạc hay tin ở Tuy Hòa có một người đào vàng bị hư cả hai quả thận, bệnh viện “chê”, trả về. Rồi bệnh nhân đó uống thuốc của một người dân tộc thiểu số ở Phú Túc (Krông Pa, Gia Lai) và khỏe mạnh trở lại.

Như người sắp chết đuối vớ được cọc, anh Lạc nhờ em trai lên Phú Túc, lặn lội tìm người đàn ông kia để mua thuốc. “Em tôi mua được 2 khúc cây, mỗi khúc dài khoảng nửa mét, to bằng cổ tay với giá 150.000 đồng, về nhà vạt mỏng, rang vàng hạ thổ rồi nấu sôi kỹ để tôi uống thay nước. Đêm đó, sau khi uống hết ấm thuốc đầu tiên, tôi rất mệt, nhưng sáng hôm sau thì thấy đỡ nhiều. Tôi liền bảo em lên Phú Túc mua thêm thuốc. Uống đúng một tháng thì khỏe, tôi đi siêu âm lại, bác sĩ bảo: Thận không có vấn đề gì” - anh Lạc tươi cười kể về chuyện mình đã thoát khỏi bệnh một cách kỳ diệu.

Cây thuốc đã được bào nhỏ - Ảnh: Y.LAN

CHIA SẺ NIỀM HY VỌNG

Khỏi bệnh, anh Lạc vô cùng tò mò muốn biết cây thuốc gì đã giúp mình bước qua “cửa tử” nên đem khúc cây đến gặp nhiều người dân tộc thiểu số sống ở địa phương để tìm hiểu. Tuy nhiên, tất cả đều lắc đầu, chẳng biết đó là cây gì. Bởi vì trước khi bán thuốc cho gia đình anh Lạc, người đàn ông ở Phú Túc đã chặt cây thuốc ra thành từng khúc và trên cây không còn một cái lá nào, vì vậy, người ta không thể “nhận diện” được.

Khỏe mạnh trở lại, anh Lạc tiếp tục làm rẫy và mua cây thuốc “trữ” trong nhà. “Mỗi lần lên Phú Túc, tôi mua từ 1 đến 2 triệu đồng tiền thuốc để dành trong nhà, ai cần thì tôi chia lại cho họ” - anh Lạc cho biết.

Cách đây 3 năm, anh Cao Văn Thìn ở thôn Nguyên Trang, đồng hương với anh Lạc, mắc bệnh sốt rét, sau đó tiểu ra máu rất nhiều. Anh Thìn đến bệnh viện khám thì được khuyên nhập viện để điều trị. “Lúc đó vợ tôi cũng bệnh, đang lúc mùa màng mà gia đình lại neo người nên tôi không nhập viện. Anh Lạc hay tin, đưa cho tôi một khúc cây, bảo về sắc uống thử. Tôi uống vào thấy đỡ, nước tiểu trong trở lại. Công nhận cây đó hay, cách sử dụng cũng rất đơn giản” - anh Thìn kể.

Anh Thìn cho biết sau khi uống hết 4 ấm thuốc, anh khỏi bệnh cho tới bây giờ. Khúc cây thuốc mà anh Lạc đưa, giờ vẫn còn một ít, anh Thìn cất kỹ, để dành. “Nó chẳng bị mối mọt gì cả, dù tôi cứ để khơi khơi như thế” - anh Thìn nói. Rồi, cũng như anh Lạc, anh Thìn rất tò mò muốn biết rốt cuộc đó là cây gì mà hay vậy. “Hai anh em đã lên Gia Lai mua thuốc và “theo dõi” người đàn ông đó vì muốn tìm ra gốc gác cây thuốc, nhưng mà không được” - anh Thìn tươi cười kể.

Không chỉ nhiều người dân ở thôn Nguyên Trang biết về cây thuốc “của anh Lạc”, mà người ở xa cũng gọi điện đến “đặt hàng”. Anh Lạc nói: Tôi đã chia thuốc cho rất nhiều người, gần có, xa có, giờ không thể nào nhớ hết. Có người ở Cam Ranh (Khánh Hòa), uống hết bệnh rồi mà vẫn mua thêm, nói là để “thủ” trong nhà. Một người tên Thi bị phù, ứ nước ở thận, uống thuốc hết bệnh rồi thì mua về bán cho dân trong vùng. Tít trong TP Hồ Chí Minh cũng có người điện ra tìm mua cây thuốc này”. 

Một trong những người ở TP Hồ Chí Minh đã mua thuốc của anh Lạc là anh Nguyễn Đức Thái, sống tại quận Thủ Đức. Qua điện thoại, anh Thái cho biết: “2 năm trước, thận của tôi bị ứ nước độ 2. Nghe người ta mách bảo, tôi mua thuốc của anh Lạc, uống chừng gần một tháng thì khỏi bệnh. Từ đó đến nay, tôi vẫn đi kiểm tra sức khỏe định kỳ, kết quả đều ổn”. 

Theo lời anh Lạc, cây thuốc mà anh trữ trong nhà “chuyên trị” chứng suy thận, phù do bệnh về thận, thận ứ nước, tiểu ra máu do tổn thương thận, còn bệnh sỏi thận thì cây thuốc này “bó tay”. Khi phóng viên tỏ ý muốn biết “mặt mũi” cây thuốc, anh Lạc kêu vợ mang ra một khúc cây to bằng cổ tay trẻ con, có gai, màu vàng rất nhạt. Rồi anh mang ra một cái máy bào. Tì khúc cây vào cửa, anh Lạc bắt đầu bào và dăm xối xả văng ra. Chốc sau, anh đã có một vốc to dăm mỏng bào từ cây thuốc, có mùi hăng rất nhẹ. Anh Lạc hướng dẫn: Đem cái này rang vàng, hạ thổ rồi cho vào ấm đất, đổ 4 chén nước, đun sôi kỹ rồi uống thay nước, thế thôi. Một ấm thuốc nấu từ 2 đến 3 nước mới bỏ. Cũng theo anh Lạc, người bị suy thận phải uống từ nửa tháng đến một tháng mới có kết quả, còn người bị phù do bệnh về thận thì chỉ cần uống trong năm mười ngày. 

“Có người ở TP Tuy Hòa điện lên hỏi về cây thuốc, rồi hỏi là có cần đưa bệnh nhân đến để bắt mạch không. Trời, tôi đâu phải là thầy thuốc. Tôi may mắn biết được cây thuốc này, cứu được mình, sau đó thì giúp cho bà con thôi” - anh Lạc nói.

Bạn đọc có nhu cầu liên lạc với anh Ngô Sĩ Lạc, thì liên lạc theo số điện thoại: 0168.614.6886. 

Trao đổi xoay quanh cây thuốc “bí ẩn” đang được anh Ngô Sĩ Lạc chia sẻ với nhiều người mắc bệnh thận, đông y sĩ Lê Văn Phước ở TP Tuy Hòa - người đã có nhiều năm sưu tầm, giới thiệu những cây thuốc quý - nói: Muốn biết đó là cây gì, hoạt chất của nó như thế nào thì phải gửi tiêu bản đến Viện Dược liệu để các nhà chuyên môn xác định.
Cũng theo ông Phước, trong nhiều trường hợp, thổ nhưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc chiết xuất được dược liệu từ cây thuốc. Và phải thu hái đúng quy trình, nếu thì cũng không có tác dụng.
YÊN LAN
BÌNH LUẬN

Đăng bởi trung17:38

Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

12 câu nói muôn đời giá trị của Khổng Tử

Filled under:


Là nhà tư tưởng, nhà triết học nổi tiếng lịch sử Trung Quốc, Khổng Tử đã để lại cho đời nhiều câu nói có giá trị đến muôn đời sau.
IMG_4206.JPG
1.Biết có lỗi mà không sửa thì đó chính là lỗi.
2.Người không có chữ tín sẽ chẳng làm nên việc gì.
3.Sự nghiệp chớ nên cầu mong không có chông gai, trắc trở vì không có chúng thì ý chí sẽ không kiên định.
4.Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi.
5.Đừng mong người khác thuận theo ý mình vì nếu được người khác thuận ý sẽ tất sinh tự kiêu.
6.Làm việc đừng mong dễ thành công. Vì nếu dễ thành công thì bản thân thường kiêu ngạo.
IMG_4203.JPG
7.Không nhìn điều sai trái, không nghe điều xằng bậy, không nói điều sai, không làm điều càn quấy.
8.Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác. Đối với quê hương, gia đình nên tránh gây thù, chuốc oán.
9.Người không có nhận thức sâu xa sẽ có ngày sẽ gặp phiền muộn, âu lo.
10.Mọi thứ đều từ hư vô mà ra.
11.Dùng thì đừng nghi, nghi thì đừng dùng.
12.Ngồi bàn tiệc đừng ra vẻ anh hùng vì rượu đã làm cho nhiều người gục ngã.
IMG_4202.JPG

Đăng bởi trung20:58

Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2014

Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì

Filled under:


Từ ngày tình cờ phát hiện ra công thức trị ho cho trẻnày, mỗi khi con bị ho hắng, sổ mũi hay cảm lạnh…lòng em chẳng còn nóng như lửa đốt.
....
Em vỡ ối, chuyển dạ sớm nên con phải sinh mổ, lại đúng đợt gió mùa đông bắc rất lạnh. Có lẽ cũng vì lý do đó nên ngay từ lúc mới sinh, hệ hô hấp của Nhím đã kém hơn các bạn. Không cứ mùa đông hay mùa hè, hầu như cứ 1,2 tháng con lại bị ho một lần, mỗi lần kéo dài cả tuần, thậm chí cả tháng mới hết. Đến nay đã được gần 2 tuổi, em đếm không hết bao nhiêu lần Nhím phải đi khám, uống đủ loại siro và thậm chí cả kháng sinh mà bác sỹ kê.




Đợt này thời tiết miền Bắc trở lạnh, hầu hết các bạn nhỏ đều bị ho, sổ mũi nên Nhím cứ khỏi được 4,5 ngày thì đi mẫu giáo lại bị lây bạn. Bao nhiêu mẹo trị ho dân gian để cả những loại siro đắt tiền của Nhật, Pháp, Mỹ…em đều đã thử qua cho con. Vậy nhưng Nhím uống hết nguyên lọ mà tình hình vẫn không thấy đỡ. Nhìn con ho đỏ bừng mặt, cả đêm cứ đang ngủ lại bật dậy ho rồi khóc, đờm trong họng nghe đặc quánh mà không thể tự thải ra, cả gia đình em lo lắng mất ăn mất ngủ. Ông bà và chồng cứ giục giã đưa con đi khám nhưng em thì chần chừ không muốn. Nhím đi khám cũng đã nhiều nơi, đơn thuốc vẫn vậy: siro ho và kháng sinh. Em không muốn con phải tiếp tục như vậy.

Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì - 1
Mùa đông, tháng nào con cũng ho, sổ mũi mất 1,2 tuần (ảnh minh hoạ)
Đêm hôm ấy, nửa đêm đang ngủ, Nhím lại tỉnh giấc, ho liên tục 15 phút không nghỉ. Nhớ đến lọ siro tự chế bằng hành tỏi mật ong theo công thức của mẹ Tây mà có lần em tình cờ đọc được, đã tự làm mà chưa dám cho con uống vì sợ mùi hăng con không chịu, em quyết định lấy ra cho Nhím thử xem sao. Kết quả thật bất ngờ, sau khi uống một thìa “thuốc lạ” của mẹ, Nhím đột nhiên ho rồi sặc ra một cục đờm rất to. Tối đấy, con ngủ ngon hẳn không còn một tiếng động nào suốt đêm. Uống thêm 2 ngày nữa thì hầu như mọi triệu chứng hắt xì, chảy nước mũi, ho đờm của con gần như hết hẳn.



Từ ngày tình cờ phát hiện ra công thức này, mỗi khi con bị ho hắng, sổ mũi hay cảm lạnh…lòng em chẳng còn nóng như lửa đốt, cứ thong thả “chế thuốc ho” rồi cho con uống, hầu như không lần nào Nhím ho quá 3 ngày. Bản thân Nhím cũng rất thích uông “thuốc ho” này vì nó không hề có mùi hành, tỏi như em vẫn lo. Tuy nhiên để đảm bảo, sau khi ngâm xong, em luôn cẩn thận chắt nước riêng, hành tỏi bỏ đi để con không phát hiện ra.

Công thức này em đã mách cho nhiều người để trị ho cho trẻ, đều rất hiệu nghiệm. Chị em đang có con bị ho cùng thử xem sao nhé!

- Hành tím 1 củ
- Tỏi nhỏ 2 củ hoặc tỏi to 1 củ
- Hành tỏi bóc vỏ rửa sạch, thái khoanh tròn.

Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì - 2
Hành tỏi bóc vỏ rửa sạch, thái khoanh tròn.
- Cho hành tỏi đã thái vào lọ, đổ mật ong ngập miệng rồi ngâm qua đêm hoặc 12 tiếng.
Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì - 3
Cho hành tỏi đã thái vào lọ

Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì - 4
Đổ mật ong ngập miệng rồi ngâm qua đêm hoặc  8 -12 tiếng
- Chắt hành tỏi bỏ đi, lấy nước siro cho con uống ngày 2-3 lần, mỗi lần 1 thìa cafe. Bảo quản trong nhiệt độ phòng.
Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì - 5
Nước hành tỏi mật ong cho con uống ngày 2-3 lần, mỗi lần 1 thìa cafe
Chúc mẹ thành công!

Đăng bởi trung07:16

Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2014

Người Nhật Bản làm việc như thế nào

Filled under:






Nguồn từ Kicbu! Thanks Kicbu! 

http://kichbu.blogspot.com/2014/12/nguoi-nhat-ban-lam-viec-nhu-nao.html 

Как работают японцы


Маria Karpova

Kichbu theo: zavtra.ru
Nhân viên công ty Epson kể

Có suy nghĩ khuôn sáo rằng ở Nhật Bản làm việc tốt. Ý kiến này xuất phát từ những đồng hương của chúng ta đang làm việc theo lời mời của các công ty nước ngoài, nơi người Nhật cố gắng để điều chỉnh theo mức độ và phong cách của người nước ngoài. Trong khi đó, hệ thống lao động truyền thống của Nhật Bản được tổ chức độc đáo, và tồn tại trong đó khá nặng nề. Chính  vì vậy  người nước ngoài thăng tiến trong các công ty Nhật Bản cổ điển không nhiều đến vậy. Nhân viên của công ty Epson, Marina Matsumono kể về nhân viên văn phòng bậc trung ở Nhật Bản làm việc như thế nào.

Quy định ăn mặc.

Dĩ nhiên, các quy tắcphụ thuộc vào công ty cụ thể, nhưng về nguyên tắc quy định ăn mặc tại Nhật Bản chặt chẽ hơn nhiều so với ở Nga. Việc không tuân thủ các quy tắc của nó sẽ mang lại những hậu quả nghiêm trọng đối với nhân viên, cho đến mức bị sa thải ngay lập tức.

Trong công ty truyền thốngcủa Nhật Bản nhất thiết phải mặc trang phục màu đen bất kể thời tiết, ngay cả khi ngoài trời  +40. Người Nhật Bản chịu đựng một cách bình thản cả lúc nóng bức, cả giá lạnh, bởi họ trải qua sự tôi luyện khốc liệt đối với cơ thể khốc liệt từ tấm bé. Gần đây đã một luật mới cho phép mặc áo ngắn tay đến nơi làm việc. Điều này liên quan đến lý do buộc phải tiết kiệm điện, khi bây giờ trong các văn phòng ngay cả trong điều kiện thời tiết nóng bức không phải lúc nào cũng sử dụng máy điều hòa không khí.

Trong một số công ty, phụ nữ bị cấm mặctrang phục gây chú ý - trang phục phải tuyệt đối đứng đắn. Váy nhất thiết phải phủ đầu gối.

Đồ nữ trang cũng bị cấm. Tôi có một công ty quan trọng, nổi tiếng thế giới. Nhưng nơi tôi làm việc hầu hết là người Nhật Bản. Tại nơi làm việc của tôi, họ cho phép tôi được đeo chỉ thánh giá - phía trong áo để không ai trong thấy nó, và nhẫn cưới.

Trang điểm không nên lộ rõ. Phụ nữ Nhật Bản thích tô điểm rực rỡ, đôi má rất ửng hồng, hầu hết dùng lông mi giả. Nhưng tại nơi làm việc, phụ nữ nên nom càng ít thu hút đàn ông càng tốt.

Ở một số nơi, phụ nữ chỉ nênđể tóc ngắn, không phủ kín tai. Màu tóc -phải là màu đen. Nếu do tự nhiên, chẳng hạn, cô gái tóc vàng - cần phải nhuộm tóc.

Đàn ông ngoại trừmái tóc để dài, bị cấm để râu quai nón và ria mép. Đó một quy tắcbất thành văn mà tất cả mọi người đều biết. Lối sống ổn cố Yakuza (hình thức truyền thống của tổ chức tội phạm ở Nhật Bản) ngăn cản.

Quan hệ tùng thuộc.

Khi được bố trí vào làm việc, tôi đã ký một loạt các văn bản, nơi tôi cam kết rằng tôi sẽ không trao đổi với khách hàng và đồng nghiệp bất kỳ điều gì ngoài công việc: cả về thời tiết, cả về thiên nhiên. Tại nơi làm việc tôi không có quyền chia sẻ "các dữ liệu cá nhân" của mình - chồng tôi là ai, công việc của tôi như thế nào... Ở nhà, tôi không có quyền kể về công việc của mình. Công việc của tôi không bí mật, nhưng đã chấp nhận và thỏa thuận như vậy trong hợp đồng của tôi.

Đến nơi làm việc chỉ được mang theo những vật dụng cần cho công việc: đối với tôi đó là tài liệu và cây bút. Túi xách, ví tiền và điện thoại tôi không thể mang theo, tất cả phải được để lại ở chỗ kiểm soát ra vào.

Ở Nga có một câu nói được ưa thích: "Xong việc - chơi thoải mái". Tại nơi làm việc ở Nga điều chủ yếu là bạn hoàn thành kế hoạch của hôm nay. Ở Nhật Bản "kế hoạch của hôm nay" không làm ai bận tâm. Bạn đã đến nơi làm việc, và phải làm việc tại đó.

Người Nhật kìm hãm quá trình làm việc như thế nào.

Ở Nga, tất cả chúng ta đều biết rằng tiền lươngphụ thuộc vào kết quả công việc của bạn. Nếu làm việc kém - bạn chẳng nhận được gì cả. Nếu làm việc tốt - bạn sẽ được nhận tiền thưởng và thăng tiến trong công việc. Nếu bạn đã hoàn thành tất cả công việc, có thể về sớm hơn hoặc xin làm việc bổ sung để kiếm được nhiều tiền hơn.

Ở Nhật Bản trả tiền theo giờ làm việc. Hầu như tất cả người Nhật Bản nhận tiền làm ngoài giờ. Nhưng điều này thông thường biến thành thực tế là họ kéo dài một công việc có thể thực hiện trong vòng hai giờ - thành một tuần. Thời hạn được quy định bởi công ty cũng không phải luôn luôn tương ứng với mức độ phức tạp của công việc. Người Nhật Bản sẽ dềnh dàng hàng giờ, chúng ta cảm tưởng  rằng họ làm việc vật vờ, còn họ cho rằng đang thực hiện công việc "chăm chỉ". Họ đang kìm hãm quá trình làm việc thật không thể tưởng tượng nổi, bởi vậy làm việc với họ chúng tôi thật khó khăn.

Và, tiện thể nói thêm, đây là một trong những nguyên nhân, theo đó nền kinh tế của họ không phải ở trạng thái tốt nhất. Vớihệ thống trả lương theo giờ, họ đãđưa mình vào bẫy. Bởi, trên thực tế, công việc không nhắm vào chất lượng, mà là số giờ tại văn phòng.

Những cuộc trao đổi tràng dang đại hải kéo dài

Chúng ta đều biết rằng"ngắn gọn - mẹ đẻ của tài năng", ở Nhật Bản ngắn gọn - đó là thiển cận trí tuệ. Người NhậtBản không thể nói một cách ngắn gọnngay cả về công việc. Họ rơi vào giải thích lê thê và tràng dang mà chúng chỉ nhắm để một người thiển cận hiểu họ nói gì với người ấy. Các cuộc họp có thể kéo dài với hàng giờ không thể tin nổi. Người Nhật Bản cho rằng nếu họ nói nhiều và rất chi tiết về một và chỉ một việc, thì như vậy họ tôn trong người đối thoại.

Phân tầng của xã hội.

Để trồng lúa cầnrất nhiều công việc và tổ chức.Bởi vậy, trong lịch sử tại Nhật Bảnđã hình thành hệ thống lao động chuyên môn rất hẹp và phân tầng xã hội gay gắt. Mỗi người có nhiệm vụ riêng của mình vị trí của mình trong quá trình sinh sống sản xuất.

Các cộng đồng Nhật Bản luôn luôn được tổ chứcrạch ròi. Chẳng hạn samurai không bao giờ chuẩn bị bữa ăn cho bản thân, samurai có thể dễ dàng chết đóinếu như nông dân không cứu giúp.

Như hệ quả của tâm lý này, bất kỳ người Nhật Bản nàothường rất khó tự mình ra quyết định mà không vốn cố hữu theo địa vị. Họkhông thể nhận về mình trách nhiệm tối thiểu, mà nó vượt ra ngoài khuôn khổ công việc hàng ngày thông thường của họ thế nào đó. Đặt một dấu phẩy hoặckhông đặt - đây cũng là vấn đề mất cả nửa ngày. Chuẩn bị các tài liệuđơn giản - đó là chuỗi của các tham vấn bất tận. Hơn nữa, trách nhiệm của những cuộc tham vấn như vậy làm kinh ngạc. Nếu người lao động dù sao lấy cho mình lòng dũng cảm ra quyết định không theo địa vị, thì tất cả mọi người trong chuỗi tầng bậc liên quan đến người đó sẽ bị khiển trách. Đây là chuyên chế phương Đông trong hành động: "Tôi - con người nhỏ bé, tôi - một người nông dân bình thường, và tôi còn phải làm công việc chỉ dành cho tôi".

Một lần nữa, tất cả mọi vấn đề đều lý giải được: Nhật Bản- một đất nước nhỏ bé với dân số quá lớn, cần  những khuôn khổ và quy tắc nghiêm ngặt. Để sống được ở Nhật Bản - cần nhận thực rõ: giới hạn của tôi là ở đây, và còn đây là giới hạn của người khác, tôi phải tôn trọng. Không ai vượt ra ngoài phạm vi của mình. Nếu người Nhật Bản vượt ra ngoài khôn khổ, thì họ sẽ bị mất hút đúng trong nghĩa đen.

Nga là đất nước mênh mông, rộng lớn. Chúng ta không bị bó hẹp. Chúng ta phóng khoáng. Người Ngacó thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Và người Thụy Điển, và các những người dân tộc khác… - đây trước hết nói về chúng ta, những người Nga!

Cũng như tất cả mọi người.

Điều thú vị rằng, ở Nhật Bảnbạn không nên thể hiện sự khác biệt hoặcưu thế về trí tuệ. Bạn không thể bày tỏ tính độc đáo, riêng biệt của mình. Điều này không được chào đón. Tất cả cần phải giống nhau. Từ nhỏ ở đó tính độc đáo đã bị tận diệt, bởi vậy Nhật Bản sẽ không mang lại cho thế giới Einstein hay Mendeleev.

Các công nghệ nổi tiếng của Nhật Bản - huyền thoại. Như quy luật, đó là những ý tưởng được hình thành không phải bởi người Nhật Bản. Họ biết làm tốt việc gì, thì đó là khéo léo bắt chước đúng lúc và hoàn thiện điều này. Còn chúng ta ngược lại - chúng ta có thể tạo ra điều vĩ đại và quên...

Để tồn tại được trong xã hội Nhật Bản, bạn cần phải giống như mọi người. Ở Nga, trái lại, nếubạn cũng giống như mọi người - bạn sẽ bị mất hút. Luôn cần những ý tưởng mới để chinh phục và lấp đầy không gian rộng lớn.

Thăng tiến.

Trong công ty cổ điển Nhật Bản, người ta xây dựng con đường thăng tiến lâu dài. Thăng tiến nghề nghiệp phụ thuộc vào độ tuổi, chứ không phải công lao. Một chuyên gia trẻ, thậm chí rất tài năng sẽ giữ chức vụ không quan trọng, phải làm nhiều việc và lương thấp, bởi vì anh ta người mới. Vì tổ chức quá trình lao động như vậy, người Nhật Bản phải cạnh tranh ngày càng khó khăn trên thị trường quốc tế. Đúng vậy, tồn tại khái niệm chất lượng Nhật Bản, nhưng điều này không cứu được họ, bởi vì kinh doanh được thực hiện quá ư là Nhật Bản.

Lương.

Chính thức tại Nhật Bảnlương cao. Nhưng trừ tất cả các khoản thuế, chiếm xấp xỉ 60%, mọi người được nhận tận tay trung bình một nghìn dollars. Những người trẻ tuổi nhận được thậm chí ít hơn. Vào tuổi 60, lương món tiền khá lớn.

Kỳ nghỉ và những ngày nghỉ.

Tại Nhật Bản, không có kỳ nghỉ. Ngày nghỉ - đó là thứ Bảy hoặc Chủ Nhật. Và tùy thuộc vào công ty mà bạn thể có một số ngày nghỉ bổ sung trong năm. Chẳng hạn, 10 ngày, nhưng không thể nghỉ ngay lập tức. Cần phải chia nhỏ các ngày nghỉ. Chẳng hạn như lấy một ngày nghỉ trong tuần - và đi đâu đó theo công việc. Ở công ty của tôi, tôi có nghĩa vụ phải thông báo về điều này trước một tháng để tất cả mọi người hợp lại và thay thế tôi. Trong số các công ty khác, những thời hạn còn thậm chínhiều hơn. Một sự kiện bất ngờ vắng mặt tại nơi làm việc là cả vấn đề.

Nếu bạn bị ốm vào thứ haivà không nghĩ rằng không đi làm việc,thì họ sẽ không hiểu bạn. Tất cả mọi người hăng hái đi làm việc.

Ngày lễ có thể là ngày nghỉ: ngày tưởng nhớ người chết - Obon vào trung tuần tháng Tám. Nhưng chuyên gia trẻ này không có cơ hội này, và phải làm việc hay năm đầu tiên không có ngày nghỉ thêm.

Năm mới được nghỉ 1-3 ngày. Nếuchúng trùng vào thứ Bảy và Chủ nhật, thì không như ở Nga, không ai chuyển ngày nghỉ sang thứ Hai thứ Ba.

Còn có thêm "tuần lễ vàng" vào tháng Năm, khi diễn ra liên tục những ngày lễ tôn giáo và nhà nước. Chồng tôi làm việc cả các ngày, tôi có 3 ngày nghỉ.

Ngày làm việc.

Ngày làm việc tiêu chuẩn từ 9 giờ sáng đến 7 giờ tối. Nhưng điều quan trọng nhất, bạn cần nhớ rằng, nếu đã quy định ngày làm việc từ chín giờ, thì không nên đến đúng giờ này.Thậm chí nếu bạn đếnvào lúc 8.45 - xem rằng bạn đã bị muộn. Cần phải đến nơi làm việc ít nhất trước nửa giờ, một số đến trước một giờ. Cho rằng con người cần thời gian để lấy tinh thần làm việc, chuẩn bị cho công việc.

Kết thúc ngày làm việcchính thức không có nghĩa rằng bạn có thể về nhà. Không chấp nhận về trước sếp của mình. Nếu sếp còn nán lại văn phòng thêm hai giờ, thì bạn cũng phải ở lại thêm hai giờ nữa, và điều này không được tính là làm ngoài giờ. Những trường hợp cá nhân của bạn - đó là vấn đề của bạn mà như tôi đã đề cập, theo hợp đồng tôi đã ký với đồng nghiệp, là không trao đổi.

Tiếp xúc ngoài giờ.

Ở Nhật Bản có khái niệmnhư thế này - "nomikay" - "uống với nhau", gợi nhớ đến phường hội Nga. Đâu đó "nomikay" diễn ra hàng ngày, trong công ty của tôi - hai lầnmột tuần. Dĩ nhiên, có thể từ chối, nhưng họ sẽ "ngấm nguýt" bạn. Tại sao uống? - Bởi vì ở Nhật Bản xem uống  rượu với thái độ tích cực. Thần  đạo Shinto muốn làm lễ tế cho các vị thần thông qua rượu. Các bác sĩ Nhật Bảncho rằng uống rượu hàng ngày là hữu ích. Không ai nói uống bao nhiêu là vừa.

Người Nhật Bản không biết uống rượu, và, thường uống rất say. Với bạn việc uống sẽ chẳng đáng giá bao nhiêu, hoặc là sếp, hoặc là công ty luôn luôn trả tiền cho chầu rượu.

Bây giờ, để kích thích thêmviếc đến các quán bar với các đồng nghiệp - người lao động bắt đầu thậm chí trả tiền cho "nomikay." Đây là một phần của văn hóa Nhật Bản - cùng nhau làm việc và cùng nhau uống.Vậy ra rằng gần như 24 giờ một ngày của 365 ngày một năm bạn chỉ dành thời gian chỉ với các đồng nghiệp.

Ngoài "nomikay", cần phải uống với khách hàng, đối tác, quan chức mà công ty có quan hệ.

Thật vậy, ở Nga có cái gì đó tương tự, nhưng điều đó hoàn toàn không thể so sánh với quy mô uống rượu như ở Nhật Bản. Đúng vậy và sau đó ở Nga người ta xem uống rượu xấu xa hơn nhiều.

***

Bây giờ bạn có thểhình dung bức tranh toàn cảnh. Người Nhật Bản ra khỏi nhà lúc 7 giờ sáng. Tại nơi làm việc, nó tồn tại trong khuôn phép nghiêm ngặt theo địa vị của mình. Sau khi kết thúc ngày làm việc chính thứcmọi người sẽ làm thêm giờ, bởi cần họ nuôi sống gia đình. Sau đó họ  đi uống rượu với các đồng nghiệp trở về nhà từ đó lúc 2 giờ sáng, có nhiều khả năngsay. Họ làm việc vào các ngày thứ Bảy. Chỉ thấygia đình mình vào ngày Chủ nhật.  Thêm vào đó họ ngủ hoặc uống rượu suốt ngày nghỉ cho đến tối, bởi vì họ bị căng thẳng khủng khiếp vì chế độ làm việc như vậy.

Ở Nhật Bản, có một khái niệm riêng biệt - "Chết vì quá nhiều việc". Đó  chuyện rất thường xảy ra khi người ta chết sau bàn làm việc hoặc, không chịu được sức ép, đã kết  thúc cuộc đời mình bằng tự tử. Đối với Nhật Bản, đó là sự kiện thường tình, mà thực tế họ không phản ứng với nó. Người ta thậm chí sẽ nổi giận nếu ai đó tự tử gây khó dễ cho công việc của họ. Mọi người đều nghĩ rằng: "Tại sao cậu không làm điều này ở một nơi kín đáo, yên tĩnh, tôi vì cậu sẽ không đi làm đúng giờ !!".

Cần phải hiểu rằngxã hội Nhật Bản không ngồi yên và khôngnghĩ ra cho mình các quy tắc này. Tất cả  hình thành vì đặc trưng lịch sử và địa lý của Nhật Bản. Có lẽ, tất cả sẽ đồng ý rằng họ có những lý do xác đáng để động viên như vậy của xã hội, luôn luôn sẵn sàng cho bất cứ điều gì đó. Lãnh thổ nhỏ, đông dân, chiến tranh, động đất, sóng thần - vào bất cứ lúc nào tất cả đều có thể sụp đổ. Vì vậy, người Nhật từ thời thơ ấu đã học được cách làm việc theo nhóm, học  để tồn tại trên một rẻo đất của mình. Trong thực tế, toàn bộ nền giáo dục Nhật Bản được xây dựng không phải để dạy cho con người điều gì đó, phát triển nó, dạy cho con người trở thành người Nhật Bản thực sự, trở thành người có khả năng cạnh tranh chính trong xã hội Nhật Bản.. Không phải tất cả mọi người có thể chịu đựng nổi cuộc sống này, bởi vì điều này thực sự khó khăn.

Đăng bởi trung14:30