Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

Boston và không chỉ Boston

Filled under:

copy tu BEO


Cái nôi tri thức, nhưng sao? 
Tôi vẫn nhớ như in cảm giác lần đầu đến Boston vào năm 2007 để dự một khóa học ngắn hạn khi đi qua hầm ngầm dưới eo biển trong dự án Big Dig rất nổi tiếng mà được dịch ra tiếng Việt là Đường hầm lớn.
Dự án này được xem như một kỳ quan cả về mặt kỹ thuật lẫn chính trị của Hoa Kỳ khi nó kéo dài từ cuối thập kỷ 1970 đến đầu những năm 2000 và được thi công trong những điều kiện và địa hình kết sức phức tạp với kinh phí tăng từ hơn 1 tỷ lên 22 tỷ đô-la cho hơn chục cây số công trình giao thông.
Tất cả những gì tinh vi nhất, phức tạp nhất của nền chính trị Hoa Kỳ được phản ảnh rất rõ trong dự án này. Những công nghệ xây dựng tiên tiến và kỹ thuật quản lý hiện đại nhất thế giới thời bấy giờ đã được áp dụng.
Tuy nhiên, dự án đã gặp vô số rắc rối cả về kỹ thuật và quản lý ở nơi có Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT), luôn xếp số 1 thế giới về các ngành kỹ thuật và Đại học Harvard luôn xếp số 1 thế giới về các ngành quản lý.
Khó có nơi nào trên thế giới có thể sánh được với Boston về những thành tựu của giáo dục và khoa học, nhưng những Big Dig vẫn luôn là một phần tất yếu của cuộc sống.
Người Boston thừa nhận vấn đề của mình để họ đạt được những điều tốt hơn, lớn hơn đang ở phía trước chứ họ không có thói quen đổ lỗi.
Vì cách mạng hay chân lý?
Hầu như không ai phản bác Boston là cái nôi của cách mạng Mỹ. Những sự kiện quan trọng nhất đã xảy ra ở đây. Thảm sát Boston (Boston Massacre) và Tiệc trà Boston (Boston Tea Party) mà nó có liên quan mật thiết đến Những đứa con của tự do (Sons of Liberty) là hai sự kiện nổi bật nhất.
Lực lượng quan trọng nhất dẫn đến cuộc cách mạng giải phóng 13 thuộc địa bắc Mỹ chính là Những đứa con của tự do mà nhiều người cho rằng, nếu không có họ thì sẽ không có cuộc cách mạng Mỹ.
Có nhiều giả thuyết về nơi họ bắt nguồn (Boston, New York hay Connecticut), nhưng đóng vai trò quan trọng nhất có lẽ là Những đứa con của tự do ở Boston do John Adams, người sau này trở thành một trong những cha đẻ và tổng thống thứ 2 của Mỹ lãnh đạo cho dù ông không có tên chính thức trong đó do phải hoạt động công khai.
Những đứa con của tự do được ra đời để chống lại chính sách thuế khóa hà khắc của chính quyền thuộc địa của người Anh. Thực chất đây là một hội kín đã tổ chức hàng loạt các hoạt động gây bất ổn hay dựa vào một số sự kiện xảy ra để tạo thanh thế và uy tín của mình, trong đó phải kể đến Thảm sát Boston và Tiệc trà Boston.
Ngày 3/05/1770, trong một vụ đụng độ ở thành Boston, quân đội Anh xả súng làm chết 5 người và làm bị thương 6 người. Mạng người là quan trọng, nhưng với mức thiệt hại này, nhiều người cho rằng đó chỉ là đổ máu của một vụ nổi loạn thông thường.
Tuy nhiên, Những đứa con của tự do đã phóng đại nó thành một vụ thảm sát để dấy lên lòng căm thù với quân đội thuộc địa và tranh thủ sự ủng hộ của công chúng.
Các binh lính Anh dính líu đã bị bắt. Lúc bấy giờ, hầu hết mọi người đều tin rằng những binh lính này là có tội và họ đã không tìm được luật sư bảo vệ cho mình. Cuối cùng họ đã nhờ Luật sư Jonh Adams.
Tuy rất sợ việc bào chữa cho những người đã xả súng vào dân chúng sẽ ảnh hưởng đến uy tín của mình, nhất là ở vị trí của người lãnh đạo cách mạng, nhưng với lương tâm và nghề nghiệp của mình, luật sư John Adams cùng với Josiah Quincy đưa ra các chứng cứ xác đáng để chứng minh rằng 6 binh lính Anh vô tội, kể cả đồn trưởng Preston. Chỉ có hai người bị kết tội ngộ sát.
John Adams đã có phát biểu nổi tiếng trong vụ này rằng: “Thực tế là những thứ cứng đầu; và cho dù những điều chúng ta mong muốn, những khuynh hướng của chúng ta và những tiếng gọi từ cảm xúc của chúng ta là gì, chúng không thể thay đổi sự thực và chứng cứ.”
Tuy vụ thảm sát có kết cục như vậy, nhưng nó đã dấy lên lòng căm thù của dân chúng thuộc địa để sau đó ba năm xảy ra Tiệc Trà Boston. Ngày 16/12/1773, Những đứa con của tự do đã tổ chức bạo loạn để đổ trà của Công ty Đông Ấn thuộc chính quyền thuộc địa xuống biển ở cảng Boston.
Về vật chất, cuộc nổi loạn này chỉ làm thiệt hại một ít tài sản của các doanh nhân (chưa đến 1 triệu đô-la quy về giá trị hiện nay). Tuy nhiên, nó đánh dấu con đường bạo động để dành độc lập của Mỹ. Một loạt sự kiện đã được kích hoạt sau đó để đến ngày 04/07/1976, nước Mỹ chính thức tuyên bố độc lập.
Thắng đúng, thua sai?
Những đứa con của tự do đã đóng vài trò rất lớn trong Cách mạng Mỹ và hầu hết những người tham gia tổ chức này được coi như những anh hùng, những nhà yêu nước. Tuy nhiên, dưới góc độ khách quan của lịch sử, nhiều người cho rằng trong suốt quá trình hoạt động của mình, nhất là giai đoạn ban đầu, họ chỉ là những người nổi loạn.
Thậm chí, trang USHistory.org viết rằng họ chỉ là những kẻ du thủ du thực. Nếu lịch sử nước Mỹ không sang trang hay theo một chiều hướng khác thì những người này sẽ được viết khác đi.
Trang này cũng viết, trong cuộc cách mạng Mỹ, chỉ có khoảng một phần ba dân số Mỹ là ủng hộ và đi theo cách mạng, một phần ba đi theo chính quyền thuộc địa và một phần ba chẳng theo bên nào cả.
Khi cuộc cách mạng Mỹ thành công thì những người ở bên thắng cuộc được xem là anh hùng còn những người ở phía bên kia bị cho là những kẻ phản bội. Ngược lại, khi chính quyền thuộc địa còn thì những người làm việc cho họ được tôn vinh.
Nhiều người, nhiều gia đình đã phải li hương. Bi kịch nhất là đối với những gia đình có cả người ở cả hai phía. 
Cần phải có thời gian để những vấn đề nêu trên trong cuộc cách mạng Mỹ cũng như cuộc chiến Nam - Bắc sau này nhòa dần đi trong tâm trí người Mỹ. Những thế hệ sau đó đã không còn bận tâm nhiều và họ đã cùng nhau tạo dựng lên nước Mỹ ngày nay.
Lời kết
Nhắc đến Boston những ngày gần đây không thể không nhắc đến vụ đánh bom khủng bố vào ngày 15/04/2013 trong Cuộc thi Marathon được tổ chức ngày Ngày yêu nước (Patriot’s day) của Mỹ từ năm 1897.
Cuộc thi này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người dân Boston nói riêng, nước Mỹ nói chung. Vụ đánh bom xảy ra vào lúc và ở nơi mọi người không ngờ nhất bởi những phần tử cực đoan với động cơ bắt nguồn từ việc Mỹ gây ra cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan. Có rất nhiều điều để nói qua sự kiện này.
Về khía cạnh ứng phó, người dân  Boston nhìn nhận vấn đề rất thực tế và bình tĩnh giải quyết nó. Nhiều người đã tham gia hay hỗ trợ nhà chức tránh việc giải quyết hậu quả, trong khí hầu hết người dân Boston vẫn tập trung vào những công việc hàng ngày của mình.
Rất khó tìm được những ánh mắt tò mò theo dõi sự kiện làm phiền hay gây khó khăn cho việc khi thực thi nhiệm vụ của các nhà chức trách.
Boston với chiến tranh và hòa bình cũng là một vấn đề đáng được mổ xẻ. Nơi tập trung không ít những đỉnh cao tri thức của nhân loại đang kiến tạo hòa bình hay gây ra bất ổn và chiến tranh ở nơi này nơi khác trên thế giới là câu hỏi không dễ trả lời.
Ví dụ, Harvard là ngôi trường danh tiếng vào loại bậc nhất thế giới và rất nhiều người Việt Nam muốn học, nhưng đây là nơi sản sinh ra bom Napal và hình thành tư tưởng diều hâu của Henry Kissinger - những thứ đã gây không ít khổ đau cho dân tộc Việt Nam.  
Qua hành trình đến Boston, đến nước Mỹ, tôi đã hiểu rõ hơn rằng Boston, nước Mỹ hay bất kỳ một nơi nào đó - ở đâu cũng vậy đều có những điều tốt đẹp đi kèm với những thứ bốc mùi.  Mức độ tốt đẹp của cuộc sống tùy thuộc vào sự tương quan của hai nhóm này.
Nếu nhìn theo thuyết âm - dương thì mỗi sự vật, hiện tượng hay mỗi con người đều có phần trắng và phần đen hay nói cách khác vừa như thế này vừa như thế kia. Gần như không thể tìm ra những thứ chỉ trắng hoặc chỉ đen, hoặc chỉ tốt hoặc chỉ xấu.
Ở đâu cũng thế, tâm lý và hành vi của con người là như nhau. Nếu sự việc được nhìn dưới lăng kính tích cực với tinh thần xây dựng muốn cải thiện mọi thứ thì mọi chuyện sẽ tốt lên. Nếu ai nhìn vấn đề dưới lăng kính theo chiều ngược lại thì là người đầu tiên phải chịu sự khổ đau hay chí ít là sự khó chịu cho bản thân mà chúng sẽ bào mòn năng lượng và ý nghĩa của cuộc sống.
Tôi chọn cách nhìn bằng nửa ly nước đầy.
Copy từ facebook Huỳnh Thế Du 

Đăng bởi trung18:14

Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Bất ngờ: Thần dược chữa bệnh sởi chỉ là cây rau ăn thường ngày

Filled under:



Rất mong mọi người hãy dành ra 2 phút để giúp con cháu chúng ta đẩy lùi bệnh SỞI...Mình có đọc được bài báo chia sẻ bí quyết chữa bệnh sởi từ rau ngò om (hay còn gọi là rau ngổ) nên muốn chia sẻ với các mẹ để giúp các mẹ có thêm phương pháp chữa bệnh cho con.

Các mẹ hãy ra chợ mua 1 bó rau ngò om (người Bắc và người Trung gọi là rau ngổ, thường được nêm canh chua hay ăn phở), để nguyên cọng rửa thật sạch cho vào luộc cho đến khi nào thấy nước có màu giống màu nước trà thì được. Cho trẻ con hoặc người bệnh uống thay nước vẫn được. Sau khi uống vài lần thì ban sởi sẽ phát ra nhiều hơn trên cơ thể, và đồng thời người bệnh sẽ hạ sốt, ban sởi sẽ phát ra ở bụng, ở lưng và xuống chân là hết hẳn.( đây là bài thuốc gia truyền được ông Mỹ chia sẽ trên báo Tuổi trẻ và Đời Sống, thứ 2, ngày 21/4/2014.số đt ông Mỹ 01217 254 588)


Lưu ý một số vấn đề theo kinh nghiệm dân gian khi áp dụng cho trẻ bị sởi:

- Không cho trẻ tắm, chỉ giặt khăn ấm lau;
- Thay nhiều quần áo hơn cho trẻ bớt ngứa;
- Không bồng ẵm ra gió;
- Không cho người lạ bồng ẵm;
- Không được cho ăn đồ biển và thịt bò;
- Cha mẹ không sinh hoạt tình dục trong thời gian con bị bệnh uống thuốc (dân gian gọi là "mắc hơi").

[IMG]Hình ảnh cây rau ngò om (hay còn gọi là rau ngổ)

Xem đầy đủ: http://vitalk.vn/threads/bat-ngo-than-duoc-chua-benh-soi-chi-la-cay-rau-an-thuong-ngay.910890/#ixzz2zrUgjql0
Follow us: vitalkforum on Facebook

Đăng bởi trung19:38

BIOPHOTON - Ánh Sáng Sinh Học

Bài của bác Phạm Doãn

Cảm ơn bác Phạm Doãn



Vào năm 1970, một nhà lý sinh lý thuyết (theoretical biophysicist) tại Đại học Marburg ở Đức, Fritzz-Albert Popp, giảng dạy X quang - sự tương tác của bức xạ điện từ (EM) trên các hệ thống sinh học. 




Ông đã kiểm tra hai phân tử gần như giống hệt nhau: benzo [a] pyrene, một hydrocarbon đa vòng, từng được biết đến là một trong những chất gây ung thư nguy hiểm nhất đối với con người , và song sinh của nó Benzo [ e] pyrene (có cấu trúc phân tử khác biệtchút ít so với benzo [a] ). Popp đã chiếu sáng cả hai phân tử với tia cực tím (UV) trong mục đích tìm ra những gì đã làm hai phân tử đó trở nên gần giống với nhau như vậy! 



Tại sao thí nghiệm với ánh sáng tia cực tím?


Popp đã chọn nghiện cứu với ánh sáng tia cực tím.

Sở dĩ thế, vì trước đó, nhà sinh vật học Nga tên Alexander Gurwitsch, trong khi khảo sát củ hành tây vào năm 1923, phát hiện ra rằng: rễ củ hành có thể kích thích một rễ củ hành khác ở cạnh đó, nếu hai rễ cây được đựng trong các chậu thủy tinh bằng thạch anh. Trái lại sẽ không có tương tác gì cả nếu chúng được đặt trong các chậu thủy tinh silic. Ta thấy có sự khác biệt ở đây là silicon lọc bước sóng tia cực tím của ánh sáng trong khi thạch anh thì để tia cực tím đi qua! Gurwitsch đã giả thuyết rằng rễ củ hành có thể giao tiếp với nhau bằng ánh sáng bức xạ của tia cực tím.

anh






[ Hình trên ] Tất cả các rung động của năng lượng là một phần của quang phổ điện từ. Chúng bao gồm năng lượng điện, nhiệt , âm thanh, ánh sáng , sóng radio và sóng phóng Ánh sáng tia cực tím chỉ là một phần nhỏ của quang phổ năng lượng điện từ với bước sóng rất ngắn.



Kết quả những gì Popp phát hiện ra là:

- Benzo [a] pyrene (các phân tử tạo ung thư) hấp thụ ánh sáng cực tím, sau đó thay đổi và phát lại ở một tần số hoàn toàn khác - đó là một ánh sáng " Nhiễu loạn” (Scrambler) .

- Benzo [ e] pyrene (vô hại đối với con người), cho phép ánh sáng tia cực tím để đi qua nó mà không làm thay đổi ánh sáng này!



Popp lúng túng bởi sự khác biệt này, và tiếp tục thử nghiệm với tia UV và các hợp chất khác. Ông đã thực hiện thử nghiệm của ông trên 37 hóa chất khác nhau, một số gây ung thư, một số không. Sau một thời gian, ông đã có thể tiên đoán được các chất nào có thể gây ung thư. Các hợp chất gây ung thư đều hấp thu ánh sáng tia cực tím, sau đó làm thay đổi hoặc thúc đẩy sự thay đổi tần số tia cực tím đó.

Có một đặc tính kỳ lạ của các hợp chất: mỗi chất gây ung thư chỉ phản ứng với ánh sáng ở một bước sóng cụ thể - 380 nm ( nanomet) trong phạm vi cực tím . Popp tự hỏi tại sao một chất gây ung thư sẽ là một ánh sáng “nhiễu loạn”. Ông bắt đầu đọc các tài liệu khoa học cụ thể về các phản ứng sinh học của con người, và đã xem qua thông tin về một hiện tượng gọi là "sửa chữa quang học”. 



Sửa chữa bằng ánh sáng (Photo-repaire)


Hiện tượng này được biết từ các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm sinh học. Nếu bạn dùng một tia ánh sáng cực tím để hủy diệt 99 phần trăm các tế bào, kể cả DNA của nó, thì bạn vẫn có thể sửa chữa các thiệt hại (gần như hoàn toàn) của các tế bào này chỉ trong một ngày, bằng cách chiếu sáng các tế bào với cùng bước sóng, nhưng với một cường độ yếu hơn nhiều. Như vậy một ánh sang cực tím phá hủy hay sửa chữa tế bào, chỉ khác nhau ở cường độ mà thôi! Cho đến ngày nay, các nhà khoa học vẫn không thấu hiểu hiện tượng được gọi là sửa chữa quang học, nhưng không có ai phủ nhận nó.






Popp cũng biết rằng những bệnh nhân bị bệnh khô da xeroderma pigmentosum (Xơ cứng da tăng sắc tố)] cuối cùng chết vì ung thư da bởi vì hệ thống sửa chữa quang học của họ không thể sửa chữa những hư hỏng do ánh sáng mặt trời. Ông cũng bị ấn tượng bởi thực tế là “sửa chữa quang học” hoạt động hiệu quả nhất tại bước sóng 380 nm – Đây cũng chính là tần số mà các hợp chất gây ung thư có phản ứng để gây nhiễu loạn.




Đến đây, Popp đã có thể thực hiện bước nhảy vọt trong suy luận của mình. Nếu chất gây ung thư chỉ phản ứng với tần số này, nó phải có liên kết với sửa chữa quang học. Nếu vậy, điều này có nghĩa là phải có một số loại ánh sáng trong cơ thể chịu trách nhiệm về sửa chữa quang học. Một hợp chất gây ung thư vì nó khóa (block) ánh sáng này để tạo ra nhiễu loạn, khiến cơ chế sửa chữa quang học không làm việc được nữa. Điều này có vẻ hợp lý, nhưng thực sự nó có đúng hay không? 




Ánh sáng bên trong cơ thể



Popp đã hơi bối rối khi khám phá điều này. Ông đã viết về nó trong một bài báo và một tạp chí y khoa có uy tín đã đồng ý xuất bản nó.

Không lâu sau đó, Popp đã gặp một sinh viên tên là Ruth Bernhard, người nhờ cậy Popp hướng dẫn cho luận án tiến sĩ của mình. Popp nói với Ruth ông sẽ nhận lời, nếu sinh viên này có thể khẳng định rằng ánh sáng được phát ra từ cơ thể con người .

Cuộc kết hợp này là hoàn toàn tình cờ với Popp, vì Ruth vốn là một nhà vật lý thực nghiệm giỏi. Ruth nghĩ ý tưởng của Popp là vô lý, và ngay lập tức bắt tay vào việc thiết bị xây dựng để chứng minh giả thuyết của Popp…là sai!

Trong vòng hai năm, Ruth đã xây dựng một thiết bị giống như một máy dò tia X lớn, trong đó sử dụng một bộ phận làm tăng bội các hạt photon để có thể đếm ánh sáng một cách cụ thể từng photon một. Thậm chí cho đến ngày nay, nó vẫn là một trong những thiết bị tốt nhất trong lĩnh vực này. Máy đã phải rất nhạy để có thể đo lường những tia mà Popp đã tiên lượng là sẽ phát ra rất yếu ớt.

Trong một bộ phim tài liệu cũ được thực hiện trong phòng thí nghiệm tại Viện Quốc tế về Lý Sinh Học, Tiến sĩ Popp mở một cái hộp chỉ to bằng một hộp bánh mì . Ông đặt một cái lá mới cắt còn tươi và một que diêm gỗ trong một hộp nhựa, rồi đặt vào trong một phòng tối được đóng chặt cửa. Ngay sau khi mở thiết bị photo-multiplier, hình ảnh xuất hiện trên một màn hình máy tính. Que diêm có màu đen trong khi ánh sáng màu xanh phát ra từ chiếc lá được nhìn thấy rất rõ ràng.

Tiến sĩ Popp thốt lên: "Bây giờ chúng ta đã biết, con người thực chất là một thực thể của ánh sáng."

Các lá phát xạ ánh sáng của biophoton (bên phải)



Năm 1976, họ đã sẵn sàng cho thử nghiệm đầu tiên với cây dưa chuột. Thiết bị của họ cho thấy các photon, tức sóng ánh sáng, của một ánh sang có cường độ cao đáng ngạc nhiên đã được phát ra từ hột của cây dưa. Để tìm hiểu ánh sáng phải làm gì với một hiệu ứng quang hợp, họ quyết định làm thực nghiệm tiếp theo - với khoai tây – bằng cách trồng cây giống trong bóng tối. Lần này, khi các cây con được đặt trong thiết bị gia bội photon, họ đã ghi nhận được một cường độ ánh sang phát ra cao hơn nữa. Ngoài ra, họ còn thấy các photon trong các hệ thống sống còn hòa điệu hơn những gì họ từng tiên lượng.

Popp đã bắt đầu suy nghĩ về ánh sáng trong tự nhiên. Ánh sáng đã có mặt trong thực vật trong quá trình quang hợp. Khi chúng ta ăn thức ăn thực vật, Popp nghĩ , chúng ta đã đưa các photon vào cơ thể và lưu trữ chúng.

Khi chúng ta ăn bông cải xanh và tiêu hóa nó, nó được chuyển hóa thành carbon dioxide (CO2) và nước, cùng với ánh sáng được lưu trữ từ mặt trời và quá trình quang hợp. Chúng ta trích xuất CO2 và thải bỏ nước, nhưng ánh sáng, một dạng sóng điện từ (electro-magnetic), phải được lưu trữ. Khi đ vào cơ thể, năng lượng của các photon phân tán, rồi phân phối trên toàn bộ phổ (spectrum)  tần số điện từ, từ thấp nhất đến cao nhất.

Năng lượng này là động lực cho tất cả các phân tử trong cơ thể của chúng ta. Trước khi bất kỳ phản ứng hóa học có thể xảy ra, có ít nhất là một điện tử phải được kích hoạt bởi một photon có bước sóng nhất định và có đủ năng lượng .

Các nhà hóa sinh đoạt giải Nobel là Lehninger đề cập đến trong sách giáo khoa của ông rằng một số phản ứng trong tế bào sống xảy ra nhanh hơn khá nhiều so với những gì tương ứng với nhiệt độ 37C. Lời giải thích là dường như cơ thể chúng ta cố tạo ra các phản ứng hóa học qua trung gian các rung động điện từ (biophotons ) 



Ánh sáng (photon) kiểm soát tất cả mọi thứ trong tế bào


 Photon vận hành các quá trình của cơ thể giống như một nhạc trưởng điều phố các nhạc cụ cá nhân thành âm thanh tập thể. Ở các tần số khác nhau, các photon thực hiện các chức năng khác nhau. Popp thấy rằng các phân tử trong các tế bào chỉ  phản ứng với các tần số nhất định, và một loạt các rung động từ các photon gây ra một loạt các tần số trong các phân tử khác của cơ thể.

Lý thuyết này đã được hỗ trợ bởi Tiến sĩ Veljko Veljković hiện đang phụ trách Trung tâm Nghiên cứu đa ngành và Kỹ thuật , Viện Khoa học hạt nhân Vinca. Bà đã dám đặt một câu hỏi làm các nhà sinh học tế bào bối rối mãi mãi:

-          Điều gì kích hoạt hàng chục ngàn các loại phân tử khác nhau trong cơ thể để nhận ra mục tiêu cụ thể của chúng?

Quá trình sống phụ thuộc vào sự tương tác đặc thù giữa các phân tử chọn lọc, và điều đó cũng đúng đối với biến dưỡng cơ bản (basic metabolism) xảy ra ngay ở các trạng thái cảm xúc tinh tế. Nó giống như việc cố gắng để tìm một người bạn trong bóng tối của phòng khiêu vũ rất đông người.

 Hình ảnh thông thường của một tế bào hiện nay được nường tượng như là một túi của các phân tử hòa tan trong nước. Thông qua sự xúc chạm tình cờ - va chạm ngẫu nhiên - những phân tử có hình dạng tương ứng “ổ khóa và chìa khóa” kết hợp với nhau để các phản ứng sinh hóa thích hợp có thể xảy ra. Lý thuyết về mô hình “Ổ khóa và chìa khóa" này hiện nay đã được cải tiến để linh hoạt và thực tế hơn. Đó là cơ chế "gây ra phù hợp '. Giả thuyết cho phép mỗi phân tử có thể tự thay đổi hình dạng một chút để phù hợp tốt hơn sau khi chúng nhận được các liên lạc. Ngoài ra ý tưởng chính (Khóa và Chìa) vẫn giữ nguyên.

Phải giải thích như thế nào khi các enzym có thể nhận ra chất đặc hiệu của chúng, làm thế nào các kháng thể trong hệ thống miễn dịch có thể bám vào những kẻ xâm lược và giải giáp vũ khí của chúng. Nói rộng hơn, đó là cách các protein có thể " cập bến " với các protein đối tác khác nhau, hoặc bám vào axit nucleic cụ thể để kiểm soát biểu hiện của gen , hoặc lắp ráp thành các ribosome loại dùng để giải mã protein, hoặc lắp ráp các tổ hợp đa phân tử sửa đổi các tin nhắn di truyền trong nhiều cách khác nhau. Nhưng với hàng ngàn - thậm chí hàng trăm ngàn phản ứng xảy ra mỗi giây chỉ trong một tế bào này có vẻ đã gạt bỏ cách giải thích bằng lý thuyết "cơ học" ra xa.

Dường như giải thích phù hợp nhất là bằng cách nào đó mỗi phân tử sẽ phát ra một trường điện từ duy nhất có thể "cảm nhận" được những phân tử thích hợp. Nó giống như một "vũ điệu" trong môi trường của các tế bào và các phân tử trong tế bào cùng di chuyển nhịp nhàng với vũ điệu đó. Âm nhạc ở đây được cung cấp bởi các photon sinh học (biophoton).

Các tế bào liên lạc và trao đổi thông tin bằng các biophoton




" Veljkovic và Cosic cho rằng các tương tác giữa các phân tử là điện trong tự nhiên, và tương tác này diễn ra trên một khoảng cách lớn hơn so với kích thước của các phân tử. Cosic sau đó giới thiệu ý tưởng về “tương tác điện từ trường năng động” (dynamic electromagnetic field). Các phân tử nhận ra mục tiêu cụ thể của mình (và ngược lại) bằng cộng hưởng điện từ. Nói cách khác, các phân tử gửi tần số cụ thể của sóng điện từ. Đây là cách không chỉ cho phép chúng "nhìn thấy" và " nghe" lẫn nhau, vì cả hai trạng thái photon và phonon cùng xuất hiện trong sóng điện từ. Chúng không những ảnh hưởng lẫn nhau từ một khoảng cách và thu hút lẫn nhau một cách không thể cưỡng lại được nếu rung động lệch phase "

(Theo The Real Bioinformatics Revolution: Protein and nucleic acids nucleic singing to one another (available report@i-sis.org.uk)



"Có khoảng 100.000 phản ứng hóa học xảy ra trong mọi tế bào trong mỗi giây. Các phản ứng hóa học chỉ có thể xảy ra nếu các phân tử tương ứng được kích thích bởi một photon ... Sau khi kích hoạt một phản ứng, photon lại trở về môi trường cũ của nó và như thế nó lại sẵn sang cho nhiều phản ứng khác nữa ... Như vậy, dường như.chúng ta đang bơi trong một đại dương của ánh sáng."

Popp cho là sự phát xạ biophoton (biophoton emission) đã hình thành một hệ thống truyền thông lý tưởng cho việc chuyển giao thông tin đến nhiều tế bào trên cơ thể. Nhưng câu hỏi quan trọng nhất vẫn là : nơi được Ánh sáng đã đến từ đâu?



Được biết, khi ethidium bromide được cho vào các mẫu DNA , nó len giữa các cặp cơ bản của chuỗi xoắn kép, khiến cặp chuỗi DNA tách rời ra. Sau khi sử dụng hóa chất, họ đo ánh sáng phát ra từ mẫu. Popp thấy rằng nếu nồng độ ethidium càng lớn , càng có nhiều DNA tách ra và cường độ ánh sang phát ra càng mạnh. Ngược lại, khi sử dụng ethidium ít hơn, ánh sáng cũng phát ra ít hơn.

Popp cũng phát hiện ra rằng DNA có thể gửi một loạt các tần số, một số trong đó dường như có liên quan đến những chức năng nhất định. Nếu DNA lưu trữ ánh sáng này, nó sẽ  phát ra thêm ánh sáng một cách tự nhiên bằng cách giải nén nguồn lưu trữ.



Các nghiên cứu chứng tỏ cho Popp rằng một trong những nguồn quan trọng nhất của ánh sáng và sự phát xạ biophoton là DNA. DNA là như âm thoa bậc thầy của cơ thể. Nó sẽ rung lên một tần số cụ thể và các phân tử nhất định nào đó sẽ rung theo. Ông nói rằng điều này có thể giúp ông tìm ra các mối liên kết còn thiếu trong lý thuyết DNA hiện tại và có lẽ là điều kỳ lạ vĩ đại nhất trong sinh học của con người – Làm thế nào một tế bào duy nhất có thể biến thành một con người hoàn chỉnh!





Các tế bào có thể "nói chuyện" với nhau


Khi bạn bị một vết cắt hoặc vết xước trên da, các tế bào bị tổn thương, bằng cách nào đó, báo hiệu với các tế bào khỏe mạnh xung quanh, để bắt đầu tái tạo bản sao của mình để hàn bít lại chỗ da hở. Khi da trở lại bình thường, một tín hiệu được gửi đến các tế bào để nói với chúng rằng phải ngưng lại qui trình tái tạo. Các nhà khoa học đã rất phân vân về tính chính xác của qui trình này .







Với lý thuyết bức xạ biophoton, Popp tin rằng ông đã có thể trả lời cho vấn đề này. Hiện tượng điều hợp và thông tin liên lạc này chỉ có thể xảy ra trong một hệ thống thống nhất (holistic system) với một nhạc trưởng trung tâm.  Những thí nghiệm của Popp cho thấy với những bức xạ ánh sáng yếu là cũng đủ cho qui trình sửa chữa của cơ thể. Bức xạ phải có cường độ thấp bởi vì các thông tin liên lạc diễn ra trong mức lượng tử rất nhỏ bên trong tế bào. Cường độ cao hơn sẽ tạo ra quá nhiều "độ nhiễu" làm mất tính hiệu quả.

Số lượng photon phát ra dường như có liên quan đến mức độ tiến hóa của sinh vật- Các sinh vật càng phức tạp thì các photon được phát ra càng ít hơn . Động vật và thực vật thô sơ có xu hướng phát ra 100 photons/cm2/sec ở bước sóng 200-800 nm, tương ứng với một tần số rất cao của sóng điện từ trong phổ ánh sáng có thể nhìn thấy được. Trong khi con người chỉ phát ra 10 photons/cm2/sec, tại cùng tần số.



Trong một loạt các nghiên cứu, Popp đã dùng một người trợ lý. Đó là một phụ nữ trẻ khỏe mạnh 27 tuổi - ngồi trong phòng mỗi ngày liên tục trong chín tháng, để ông đã đọc photon phát ra từ bàn tay và trán của cô ta. Popp sau đó phân tích các dữ liệu và ngạc nhiên phát hiện ra rằng lượng bức xạ ánh sáng tuân theo mô hình cố định - nhịp sinh học 7, 14 , 32 , 80 và 270 ngày - và mẫu tương tự như vậy cũng đã được ghi nhận theo ngày hoặc đêm, theo tuần và theo tháng. Như thể, cơ thể đã tuân theo nhịp sinh học của riêng mình và theo nhịp của thế giới tự nhiên! 



Ung thư là mất đi sự hòa điệu của ánh sáng (photon coherence)


Đi xa hơn nữa, Popp đã nghiên cứu riêng người khỏe mạnh và tìm thấy một sự hòa điệu (coherence) tinh tế ở cấp độ lượng tử. Nhưng những loại ánh sáng trong những người bị bệnh là loại gì?

Popp đã thử dùng thiết bị của mình trên một loạt các bệnh nhân ung thư. Trong mọi trường hợp, ánh sáng trong các bệnh nhân đã bị mất những nhịp điệu và chu kỳ tự nhiên cũng như sự hòa điệu của chúng. Các đường thông tin liên lạc nội bộ bị rối loạn. Chúng bị mất kết nối với thế giới. Trong thực tế, ánh sáng của người bệnh đã bị đi ra ngoài cơ thể.

Nhưng trong bệnh đa xơ cứng (Multiple Sclerosis) lại là một trạng thái của dư thừa ánh sáng. Bệnh này đã lấy vào quá nhiều ánh sang vào cơ thể, do đó ức chế khả năng hoạt động của các tế bào của. Quá nhiều sự cộng hưởng sẽ ngăn chặn tính linh hoạt và tính cá thể - như quá nhiều sự cổng hưởng của các bước chân của đoàn quân qua một cây cầu, sẽ làm cho cây cầu sụp đổ. Sự hòa điệu hoàn hảo là một trạng thái tối ưu nằm giữa sự hỗn loạn và trật tự.  Giống như dàn nhạc có quá nhiều thành viên sẽ không còn khả năng ứng biến. Trong thực tế, bệnh nhân MS đang chết đuối trong ánh sáng.

Popp cũng đã kiểm tra những tác động của căng thẳng. Trong trạng thái căng thẳng, tỷ lệ bức xạ biophoton tăng lên - một cơ chế bảo vệ được thiết kế để khôi phục lại trạng thái cân bằng cho bệnh nhân.

Popp bây giờ nhận ra rằng những gì ông đã được thử nghiệm với thậm chí còn vượt xa hơn ở cách chữa bệnh ung thư hoặc sự thay đổi hình thái (morphogenesis). Đây là một mô hình lý thuyết tốt hơn so với học thuyết Tân Darwin hiện nay, để giải thích tất cả các sinh vật đã tiến hóa trên hành tinh này như thế nào. Đó không phải là một hệ thống vốn có lỗi nhưng cuối cùng may mắn ngẫu nhiên xảy ra , nếu DNA sử dụng tần số khác nhau như một công cụ thông tin , điều này cho thấy đó là một hệ thống phản hồi thông tin liên lạc hoàn hảo thông qua sóng mã hoá và chuyển giao thông tin .



Thực phẩm tốt và Biophoton


Popp nhận ra rằng ánh sáng trong cơ thể thậm chí có thể là chìa khóa của sức khỏe và bệnh tật. Trong một thí nghiệm, ông đã so sánh ánh sáng từ trứng của gà mái thả rong với trứng của gà nhốt lồng. Các photon trong loại trứng đầu tiên hòa điệu hơn so với loại trứng thứ hai .

Popp đã tiếp tục sử dụng bức xạ biophoton như một công cụ đo chất lượng của thực phẩm. Các thực phẩm lành mạnh nhất có ánh sáng với cường độ thấp nhất và hòa điệu nhất. Bất kỳ xáo trộn nào của hệ thống cơ thể đều làm tăng sản xuất của các photon. Sức khỏe là một trạng thái của thông tin liên lạc hoàn hảo của hạ nguyên tử (subatomic), và bệnh tật là một trạng thái của sự sụp đổ trong thông tin liên lạc . Chúng ta bị bệnh khi sóng ánh sáng của chúng ta không còn "hòa điệu" nữa.

Bức xạ BioPhoton hiện đang sử dụng một cách  thương mại trong ngành công nghiệp thực phẩm. Khoa học nông nghiệp cũng đang tìm kiếm các bức xạ bio-photon để xác định tính lành mạnh của thực vật nhằm mục đích kiểm soát chất lượng thực phẩm. Biophotonen là một công ty làm việc nhằm phát triển và ứng dụng thực tế của biophotonics. Công trình được dựa trên một loạt các bằng sáng chế. "Biophotonen" giải quyết vấn đề thực tế của ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp môi trường, mỹ phẩm, vv




Các ứng dụng từ phát hiện của tiến sĩ Popp


Trong những năm 1970, Tiến sĩ Veljko Veljkovic, hiện đang phụ trách Trung tâm Nghiên cứu đa ngành và Kỹ thuật, Viện Khoa học hạt nhân Vinca, cũng phát hiện ra một phương pháp dùng để tiên đoán các chất gây ung thư, trong hàng trăm hoá chất mới được sản xuất bởi ngành công nghiệp hóa chất, bằng cách đo đạc các đặc tính biophotonic và điện tử của các phân tử. Phương pháp này cũng giống như đối với phương pháp dự đoán các chất hữu cơ gây đột biến, hoặc độc hại , và thậm chí cả những chất là kháng sinh , hoặc kìm chế tế bào (tức chất chống ung thư) . Viện Veljkovic ở Belgrade cũng đã hợp tác với các phòng thí nghiệm khác ở châu Âu, để áp dụng phương pháp tương tự để phát hiện ma túy và đặc biệt là để chống bệnh AIDS.



Trị liệu bằng Biophoton




Điều trị Biophoton là ứng dụng chữa bệnh bằng cach chiếu ánh sáng đến các khu vực đặc biệt của da. Ánh sáng, hay hạt photon, được phát ra bởi các thiết bị này được hấp thụ bởi thụ thể quang học (photo-receptor) của da và sau đó, thông qua hệ thống thần kinh của cơ thể, đi đến não, nơi được các photons giúp điều chỉnh cái được gọi là năng lượng sinh học (bio-energy) của con người. Bằng cách kích thích từng khu vực nhất định của cơ thể bằng một liều nhất định của ánh sáng, liệu pháp biophoton có thể giúp giảm đau cũng như hỗ trợ trong quá trình chữa lành các bệnh khác nhau của cơ thể.




Lý thuyết điều trị biophoton được dựa trên công trình của Tiến sĩ Franz Morell và đã được mở rộng bởi công trình của bác sĩ LC Vincent và FA Popp, người đưa ra giả thuyết rằng ánh sáng có thể ảnh hưởng đến sự dao động điện từ, hoặc sóng của cơ thể và điều tiết các hoạt động của enzyme.



Phải mất khoảng 25 năm để Popp thu phục những người chống đối trong cộng đồng khoa học. Dần dần, có một vài nhà khoa học trên thế giới bắt đầu xem xét lại và cho rằng hệ thống thông tin liên lạc của cơ thể có thể là một mạng lưới phức tạp của các cộng hưởng và tần số. Cuối cùng, họ hình thành các Viện Quốc tế về Lý Sinh Học (Biophysics), bao gồm 15 nhóm các nhà khoa học từ các trung tâm quốc tế trên toàn thế giới.



Popp và các cộng sự mới của mình tiếp tục nghiên cứu phát ánh sáng từ nhiều sinh vật cùng loài, đầu tiên là một thử nghiệm với một loại bọ chét nước họ Daphnia. Những gì họ tìm thấy thật đáng kinh ngạc. Với một thiết bị nhân bội hạt quang, cho thấy bọ chét nước hút ánh sáng lẫn nhau. Popp đã thử các thí nghiệm tương tự trên các loài cá nhỏ và đã nhận được kết quả tương tự . Các thiết bị nhân bội hạt quang cho thấy hoa hướng dương giống như một máy hút bụi sinh học, nó di chuyển theo hướng của các photon phát ra từ mặt trời nhất. Thậm chí có loài vi khuẩn nuốt photon từ môi trường quanh chúng! 



Cách thông tin liên lạc giữa các sinh vật 


Do đó, Popp chợt nhận ra rằng những bức xạ còn có một mục đích bên ngoài cơ thể . Sóng cộng hưởng không chỉ được sử dụng để giao tiếp bên trong cơ thể, nhưng còn sử dụng để thông tin giữa những sinh vật. Hai sinh vật khỏe mạnh tham gia vào hiện tượng, mà ông gọi là “mút photon” (photo suckling), bằng cách trao đổi các hạt photon. Popp nhận ra rằng sự trao đổi này có thể mở khóa bí mật của một số câu hỏi hóc búa dai dẳng nhất trong thế giới động vật: làm thế nào các đàn cá hoặc các đàn chim tạo ra sự phối hợp nhóm một cách hoàn hảo và tức thời.

Sự phối hợp kỳ lạ của một đàn cá

Sự phối hợp kỳ lạ của một đàn chim





Nhiều thí nghiệm về khả năng dẫn đường của động vật chứng minh rằng nó không có gì liên hệ với sự quen đường, mùi hương hoặc thậm chí với điện từ trường của trái đất, mà chính là một số hình thức giao tiếp im lặng và vô hình, ngay cả khi các động vật cách nhau với hàng dặm khoảng cách.

Đối với con người, nếu chúng ta có thể hấp thu các photon của các sinh vật khác, chúng ta cũng có thể có thể sử dụng thông tin từ người khác để sửa ánh sáng của chúng ta nếu nó đã lệch lạc. 



Sự Chết được truyền qua kênh "ánh sáng"huyền bí


Một số thí nghiệm vô cùng thú vị được thực hiện bởi VP Kaznacheyev và cộng sự liên quan đến việc cái chết có thể truyền đi bởi kênh ánh sáng huyền bí.



Có hai mẫu, gồm các tế bào được lấy từ cùng một môi trường nuôi dưỡng. Hai mẫu được đặt hai bên, ngăn cách nhau bằng một cửa sổ . Tất cả đều ở trong một phòng tối không có ánh sáng.
Các tế bào trong mẫu số (1) bị làm chết bởi các tác nhân như vi trùng, siêu vi trùng, độc tố, hóa, chất, tia xạ v.v..
Nếu cửa sổ được làm bằng thủy tinh thông thường, mẫu thứ hai (2) vẫn sống và khỏe mạnh. Nhưng nếu cửa sổ được làm bằng thạch anh, thì các tế bào của mẫu thứ hai bị bệnh và chết với các triệu chứng tương tự như các mẫu số (1).

Sự khác biệt lớn giữa truyền kính cửa sổ bằng kính và cửa sổ bằng thạch anh là:
Chất liệu kính là tương đối mờ với tia cực tím và hồng ngoại.  Trong khi thạch anh truyền cả tia cực tím và hồng ngoại tốt. Do đó kính là một chất kiềm chế của kênh huyền bí , trong khi thạch anh thì không.

[V.P. Kaznacheyev et al, "Distant Intercellular Interactions in a System of Two Tissue Cultures," Psychoenergetic Systems, Vol. 1, No. 3, March 1976, pp 141-142]



Cây lá có khả năng trị liệu


Popp đã bắt đầu thử nghiệm với ý tưởng như vậy. Nếu hóa chất gây ung thư có thể làm thay đổi lượng bức xạ biophoton của cơ thể , thì có thể có các chất khác có thể mang lại thông tin liên lạc tốt hơn. Popp tự hỏi liệu có chiết xuất của cây lá nào đó có thể thay đổi tính chất của bức xạ biophoton từ tế bào ung thư, giúp cho chúng nối lại thông tin liên lạc với phần còn lại của cơ thể. Ông bắt đầu thử nghiệm với một số chất không độc hại, nhằm để điều trị ung thư hiệu quả. Trừ một trường hợp, còn lại tất cả các chất này chỉ làm tăng photons từ các tế bào khối u, thậm chí còn làm nguy hiểm hơn cho cơ thể.

Một thử nghiệm thành công duy nhất là với cây tầm gửi (sender mistletoe), cây này giúp cơ thể điều chỉnh bức xạ photon của các tế bào khối u trở lại bình thường. Một trong rất nhiều trường hợp của Popp, là một người phụ nữ vào tuổi ba mươi bị ung thứ vú và ung thư âm đạo. Popp đã thấy phương thuốc cây tầm gửi đã tạo ra sự hòa điệu photon trong các mẫu mô ung thư. Với sự đồng ý của bác sĩ trị liệu, người phụ nữ dừng mọi điều trị và  chỉ sử dụng chiết xuất từ ​​cây tầm gửi. Sau một năm, tất cả các xét nghiệm của cô hầu như trở lại bình thường.



Đối với Popp, phương pháp trị liệu “vi lượng đồng căn” (Homeopathy) là một ví dụ khác của hiện tượng “hút photon” (photon suckling).  Ông đã bắt đầu nghĩ về nó như một “cộng hưởng hấp thụ” (resonance absorber). Homoeopathy dựa trên các quan điểm cho rằng cái giống nhau trị lành cái giống nhau. Một chiết xuất từ thực vật có sức mạnh để gây phát ban trong cơ thể, phải được pha rất loãng khi sử dụng để tránh tình trạng phát ban đó. Đối với một tần số gây hại trong cơ thể, cái có thể tạo ra các triệu chứng nhất định, thì dung dịch trị liệu phải được pha loãng, sao cho có thể tạo ra các triệu chứng tương để tạo ra cùng tần số đó. Giống như một âm thoa cộng hưởng, một giải pháp phù hợp homoeopathic có thể thu hút và sau đó hấp thụ các dao động bất thường, giúp cơ thể  trở lại sức khỏe bình thường.



Popp nghĩ rằng tín hiệu điện từ của phân tử, thậm chí có thể giải thích được cách trị liệu bằng châm cứu. Theo Y học cổ truyền Trung Quốc, cơ thể con người có một hệ thống kinh tuyến chạy sâu trong các mô.  Năng lực vô hình mà người Trung Quốc gọi là Khí hoặc lực lượng cuộc sống chạy qua hệ thống các kinh này. Các “Khí” được cho là đi vào cơ thể thông qua các điểm châm cứu và chảy vào các cấu trúc cơ quan sâu hơn (mà không tương ứng với những bộ phận trong sinh học phương Tây), để cung cấp năng lượng (hoặc lực lượng cuộc sống). Bệnh xảy ra khi năng lượng này bị chặn tại bất kỳ điểm nào dọc theo hệ kinh mạch. Theo Popp, hệ thống kinh tuyến truyền sóng năng lượng cụ thể cho từng khu vực cụ thể của cơ thể.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng rất nhiều các điểm châm cứu có một điện trở giảm đáng kể so với vùng da xung quanh (khoảng 10 kg - ohms và 3 mega – ohms). Bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình Tiến sĩ Robert Becker, người đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu về các lĩnh vực Điện Từ trong cơ thể, đã thiết kế một thiết bị ghi âm điện cực đặc biệt mà cuộn dọc theo cơ thể như một máy cắt bánh pizza. Nhiều nghiên cứu của Becker đã cho thấy lượng điện trên từng người, trong những người được kiểm tra, tương ứng với các điểm thuộc kinh mạch Trung Quốc .

[ Trích từ The Field : Các Quest cho các lực lượng bí mật của vũ trụ , bởi Lynne McTaggart ]




Ánh sáng có trong ý thức con người


Nghiên cứu mới nhất này cho những người muốn tìm hiểu về ranh giới giữa hai lãnh vực nghiên cứu và lý thuyết về photon. Trong một bài báo mang tính đột phá với tiêu đề dài "Điều phối sự sút giàm về mức hòa điệu lượng tử trong các vi ống của não bộ: Các ' Orch OR' mô hình cho ý thức", Stuart Hameroff và Roger Penrose, mô tả não như là một máy tính lượng tử có cấu trúc chính là các vi ống cytoskeletal và nhiều cấu trúc khác nữa trong mỗi tế bào thần kinh não bộ.

Nếu xem xét một tế bào thần kinh, bạn sẽ thấy rằng có rất nhiều ống rỗng xung quanh sợi trục. Các vi ống trước đây được coi là một loại giàn giáo để hỗ trợ các sợi thần kinh. Nhưng bây giờ, các vi ống này đang được nghi ngờ rằng chúng có thể là kiến ​​trúc của ý thức của con người.

Các đặc tính đặc biệt của các vi ống làm cho chúng thích hợp với hiệu ứng lượng tử, bao gồm cấu trúc lưới giống dạng tinh thể, lõi bên trong rỗng, tổ chức các chức năng tế bào và có khả năng xử lý tiến trình thông tin. Theo các nhà nghiên cứu, kích thước của chúng có thiết kế hoàn hảo để truyền tải các photon trong khoảng phổ của tia cực tím.








[ Ảnh trên: ] Sơ đồ khu vực trung tâm của tế bào thần kinh (axon xa và các đuôi gai không được hiển thị) , cho thấy các vi ống dàn trải song song, kết nối với nhau bằng bản MAPs. Ống vi thể trong sợi trục có hình dài và liên tục, trong khi ở nhánh gai chúng bị gián đoạn và có phân cực hỗn hợp. Các protein liên kết giúp kết nối các vi ống đến màng protein bao gồm các thụ thể trên đuôi gai .

Thường được xem như là “bộ xương của tế bào”, các vi ống và các cấu trúc cytoskeletal khác đã xuất hiện để đảm nhiệm hết việc xử lý các quá trình giao tiếp và thông tin. Mô hình lý thuyết đã thử trình bày cách làm thế nào mà sự thay đổi hình dạng của các vi ống (tubulins) trong mạng vi ống lattices  có thể tương tác với các vi ống lân cận để trình hiện, truyền đi và xử lý thông tin, như trong một hệ thống máy tính, có tính “tự động tế bào” ở cấp độ phân tử .

[Hameroff và Watt , 1982; Rasmussen và cộng sự, 1990; Hameroff và cộng sự , 1992]



Trong bài báo của họ, Hameroff và Penrose trình bày một mô hình liên kết giữa các vi ống với ý thức (consciousness) bằng cách vận dụng lý thuyết lượng tử. Theo mô hình của họ, sự hòa điệu lượng tử (quantum coherence) xuất hiện, rồi bị cô lập trong các vi ống ở não cho đến khi đạt tới một ngưỡng tương ứng với lực hấp dẫn lượng tử. Kết quả là một sự tự sụp đổ của hòa điệu lượng tử. Ngay lúc đó xảy ra một sự kiện gọi là "bây giờ". Trình tự của những sự kiện đó tạo ra một dòng chảy của thời gian, và ý thức.

Đừng lo lắng nếu bạn không thể hiểu được điều này. Vì thật sự rất nặng nề trong khi đọc tài liệu này. Nhưng nhờ ở tài liệu này, ta biết về sự tồn tại của các photon bên trong cơ thể. Ánh sáng bên trong là có thực và nó chính là cơ sở của hầu hết tất cả các chức năng của tế bào và của các hệ thống cơ thể của con người.
Phạm Doãn
Tổng hợp từ các tài liệu trên Internet


------------------------

Chú thích:

Bức xạ hay phát xạ, chiếu xạ là hiện tượng truyền băng lượng dưới dạng sóng
Hòa điệu photon: photon coherence
Hòa điệu lượng tử: quantum coherence
Chữ "hòa điệu" trong bài viết này được dịch từ chữ coherence.
Coherence là một thuật ngữ được dùng trong nhiều chuyên ngành chỉ sự hòa điệu, hòa hợp, kết dính.
Vài hình ảnh diễn tả ý nghĩa "hòa điệu" của các sóng, photon trong bài viết:









Fritz Albert Popp




Fritz Popp was born in 1938 in Frankfurt Germany.

- Experimental Physics (1966, University Würzburg)

- Röntgen-Prize of the University Würzburg,

- Ph.D. in Theoretical Physics (1969, University Mainz).

- Biophysics and Medicine (1973, University Marburg).

Prof. Popp rediscovered and made the first extensive physical analysis of "Biophotons". He was awarded Professorship (H2) by the Senate of Marburg University, and lectured at Marburg University from 1973 to 1980. He was Head of a research group in the Pharmaceutical Industry in Worms from 1981 to 1983 and Head of a research group at the Institute of Cell Biology (University Kaiserslautern) from 1983 to 1986 and of another research group at the Technology Center in Kaiserslautern.

Dr. Popp became an Invited Member of the New York Academy of Sciences and an Invited Foreign Member of the Russian Academy of Natural Sciences (RANS). Popp is the founder of the International Institute of Biophysics in Neuss (1996), 





Biophoton

A biophoton is a photon of non-thermal origin in the visible and ultraviolet spectrum emitted from a biological system. Wikipedia



Fritz-Albert Popp is the inventor of biophoton theory, and has coined the term biophotons which refers to coherent photons emitted from biological organisms. biontologyarizona.com




. . . the tenacity of Anna Gurwitsch, together with the development of the photon counter multiplier, resulted in the confirmation of the phenomenon of biophotons in 1962. Wikipedia


Biophotons may be detected with photomultipliers or by means of an ultra low noise CCD camera to produce an image, using an exposure time of typically 15 minutes for plant materials. Wikipedia

Explore: Photomultiplier

Đăng bởi trung19:01

Thứ Bảy, 12 tháng 4, 2014

Chữa bệnh trĩ bằng lá vông

Filled under:

CHỮA BỆNH TRĨ BẰNG LÁ VÔNG




Bệnh trĩ là một bệnh thường gặp và cũng có rất nhiều nguyên nhân gây bệnh khác nhau.

Cũng có thể do âm hư gây táo kết lâu ngày, gây khó khăn cho việc đại tiện, lâu ngày gây nên bệnh trĩ. Cũng có thể do khí hư, làm cho chức năng truyền tống của đại tràng kém hoặc bệnh ngay tại đại tràng nhất là thể nhiệt gây táo bón kết. Hoặc cũng có thể do sự gắng sức trong quá trình sinh đẻ. Các nguyên nhân trên đều có thể gây nên bệnh trĩ.

Bệnh trĩ tuy không phải là bệnh nguy hiểm tuy vậy nó gây ra những bất tiện trong sinh hoạt làm cho người bệnh luôn luôn có cảm giác khó chịu cũng như ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ. Nếu không được điều trị kịp thời cũng có thể xảy ra các biến chứng gây hậu quả nghiêm trọng.

Việc điều trị bệnh trĩ hiện nay trong y học hiện đại có thể dùng phương pháp điều trị ngoại khoa, dùng phương pháp phẫu thụât. Trong Y học cổ truyền điều trị bệnh trĩ bằng phương pháp như: Dùng thuốc bôi, thuốc đắp ngoài, thuốc uống trong hoặc kết hợp các phương pháp với nhau để tăng hiệu quả chữa bệnh. Điều trị bệnh trĩ bằng Y học cổ truyền vừa hiệu quả lại ít tốn kém, thời gian điều trị bệnh nhanh, đồng thời nâng cao sức khoẻ mọi mặt cho người bệnh, điều trị nguyên nhân gây nên bệnh do vậy ít khi tái phát. Tuy vậy cũng có trường hợp phải điều trị kết hợp YHCT với YHHĐ mới có kết quả tốt.

Trong phạm vi bài viết này tôi xin giới thiệu phương pháp chữa bệnh trĩ bằng lá Vông (Vông nem) một phương pháp chữa bệnh đơn giản mà hiệu quả.
CHỮA BỆNH TRĨ BẰNG LÁ VÔNG
Lá vông chữa bệnh trĩ
Để đưa ra được phương pháp chữa bệnh thích hợp cần thực hiện tốt các bước tứ chẩn. Chú trọng xem thời gian mắc bệnh mới hay đã lâu. Xem búi trĩ ra ngoài dài hay ngắn, màu sắc tươi nhụân hay đen khô, có mắc bệnh khác hay không, xem mạch có kết luận, lựa chọn điều trị.

Phương pháp điều trị:

Điều trị bằng phương pháp dùng thuốc đắp ngoài hoặc kết hợp giữa dùng thuốc đắp ngoài với thuốc uống trong

- Trường hợp dùng thuốc đắp ngoài: Đối với bệnh nhân không bị mắc các chứng khác, có sức khoẻ tốt, màu sắc búi trĩ tươi nhuận, đô dài búi trĩ ra ngoài từ 1 –2 cm. Khi chẩn mạch các bộ mạch bình thường

Phương thuốc:


- Lá vông từ 7 – 9 lá ( Không nên dùng lá non quá hoặc lá già quá, không dùng lá có bệnh như các lá có đốm trắng, các lá có phần bị khô … )

- Dấm thanh: Từ 30 - 40 ml

Cách dùng: - Lá vông rửa sạch bằng nước đun sôi để nguội , sau đó ngâm trong nước muối nhạt khoảng độ 3 phút, vớt ra để ráo nước, giã nhuyễn

- Dấm thanh đun sôi để nguội

Sau đó cho lượng dấm thanh vừa phải vào lá vông đã giã nhuyễn sao cho không nên khô quá mà cũng không nên ướt quá.

Trước khi đắp thuốc bệnh nhân cần được vệ sinh sạch sẽ. Sau đó dùng thuốc đắp vào búi trĩ, dùng băng gạc băng lại. Thời gian đắp từ 3 – 4 tiếng, ngày đắp 3 lần, đắp liên tục trong 3 ngày. Trong thời gian đắp thuốc bệnh nhân cần nằm nghỉ tại chỗ, hạn chế việc đi lại

Trường hợp cần điều trị kết hợp giữa uống thuốc bên trong và đắp thuốc bên ngoài đối với bệnh nhân có kèm theo các chứng bệnh khác: người mệt mỏi, kém ăn, mất ngủ … độ dài búi trĩ lớn hơn 2 cm và cần chẩn mạch để có kết luận dùng những phương thang cho phù hợp.

Tuỳ theo tình hình cụ thể mà có thể sử dụng các bài gia giảm cho phù hợp: Như bài Bổ trung ích khí, Tứ quân bổ khí, Tứ vật bổ huyết, Bát vật, Thập toàn đại bổ, Quy tỳ thang …

Nhìn chung sự vận dụng các bài thuốc phải theo từng trường hợp cụ thể không nên câu nệ và gia giảm cho phù hợp. Mục đích chủ yếu là chữa bệnh liên quan khác và thiết lập lại sự cân bằng âm dương trong cơ thể, bồi dưỡng nâng cao thể lực từ đó củng cố tính ổn định của phương thang thúoc đắp, nâng cao hiệu quả trong điều trị.

Trong khi sử dụng thêm thuốc uống trong, bệnh nhân cần kiêng ăn những thức ăn cay, nóng, rượu bia hoặc các thức ăn làm giảm tác dụng của bài thuốc.

Kết quả điều trị:

- Đối với những trường hợp chỉ sử dụng thuốc đắp tỷ lệ khỏi bệnh trên 90%, một số ít có bị lại phải điều trị đợt 2 có kết quả tốt không thấy tái phát lại.

- Đối với những trường hợp có sử dụng thêm thuốc uống trong tỷ lệ khỏi bệnh trên 75% , một số trường hợp bị bệnh đã lâu năm cần được điều trị thời gian có kéo dài hơn và kết hợp tốt với thuốc uống trong nhất là không để bị táo kết và kết hợp điều trị các chứng bệnh khác


Bàn luận

- Lá vông: là một vị thuốc đã được ghi trong sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam ” của Giáo sư, Tiến sỹ Đỗ Tất Lợi. Trong đó có ghi rõ : Nhân dân ta còn uống lá Vông và đắp lá Vông hơ nóng vào hậu môn để chữa bệnh trĩ.

Như vậy đã lâu nhân dân ta đã sử dụng lá vông để chữa bệnh trĩ. Qua kinh nghiệm điều trị của gia đình thấy rằng đây là phương thuốc điều trị rất có hiệu quả.

Trong điều trị có một số trường hợp phải kết hợp với uống thuốc thang bởi vì: Nếu chỉ sử dụng đắp thuốc không thôi thì một số bệnh nặng khó khỏi, dễ bị tái phát. Nếu chỉ điều trị bằng thuốc uống không thôi thì thời gian điều trị kéo dài, tác dụng của thuốc khó tác dụng trực tiếp nên hiệu quả không cao. Như vậy kết hợp giữa dùng thuốc đắp ngoài với thuốc uống trong sẽ phát huy được những mặt mạnh của nhau và bổ sung những mặt yếu của nhau. Một mặt trực tiếp làm cho trĩ co lên, thu lại đúng vị trí, một mặt làm nhiệm vụ cố thủ, giữ vững từ bên trong do vậy hiệu quả sẽ rất cao.

Trên đây là kinh nghiệm chữa bệnh của gia đình, đã chữa bệnh trong nhiều năm qua. Trong quá trình viết bài do trình độ có nhiều hạn chế rất mong có sự đóng góp ý kiến của quý vị.




Theo hoidongykhanhhoa.com

Một kinh nghiệm khác của một bạn đã tự chưa khỏi trĩ:

Các bạn chú ý: 
- Lá thầu dầu tía 1 lần khoảng 3 hoặc 4 lá nhỏ, lá to thì 2 lá cũng được.

- lá vông cũng khoảng 3 lá.

Giã nhỏ nát rồi bọc vào miếng vải mỏng, đắp vào hậu môn ngồi lên đúng 5p là bỏ ra nhé. 

Không phải cứ ngồi lâu là tốt đâu nhé vì trong lá này cũng có độc. Các bạn lên mạng tham khảo người ta cũng có nói đấy.

Mình thấy cách này là đơn giản dễ làm nhất. Giờ mình vẫn đang làm như vậy. Mình không uống cái cây kia nữa. 

Đăng bởi trung23:28

Thứ Ba, 8 tháng 4, 2014

Phim "Mùa len trâu"

Filled under:

Chuyện phim dựa trên tác phẩm Mùa len trâu trong tập truyện Hương rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam, kể về cuộc sống của những người nông dân miền Nam đầu thế kỷ 20. Mỗi khi mùa mưa về, nước tràn ngập mọi nơi, có những người làm nghề "len trâu", đưa trâu đi tìm cỏ để sống qua mùa lũ.

Mùa len trâu đã tham dự gần mười liên hoan phim khu vực và quốc tế và đã dành được những giải thưởng đáng kể...

Giải đặc biệt ở LHP Locarno, Thụy Sĩ
Giải đạo diễn xuất sắc nhất ở LHP Chicago, Mỹ
Giải cao nhất, Grand prix của LHP Amiens, Pháp
Giải đặc biệt của LHP Amazonas, Brasil


Đăng bởi trung19:36

Chủ Nhật, 6 tháng 4, 2014

Bài thuốc trị viêm xoang trong 8 ngày với mướp

Filled under:


ST



Mướp rất lành và trị được nhiều bệnh như mề đay, hen suyễn, bệnh trĩ... trong đó một bài thuốc được nhiều người biết tới là dùng mướp sao khô, tán nhỏ trị viêm xoang.


Mướp là một loại cây thảo dạng dây leo. Lá mọc so le, dạng tim, có 5-7 thùy có răng. Hoa đơn tính, các hoa đực tập hợp thành chùm dạng chùy, các hoa cái mọc đơn độc. Quả dài 25-30cm hay hơn, rộng 6–8 cm, hình trụ thuôn, khi già thì khô, bên trong có nhiều xơ dai.
Quả chứa chất đắng, saponin, chất nhầy, xylan, mannan, galactan, lignin, mỡ, protein 1,5%. Trong quả tươi có nhiều choline, phytin, các acid amin tự do: lysin, arginin, acid aspartic, glycin, threonin, acid glutamic, alanin, tryptophan, phenylalanin và leucin. Hạt chứa một chất đắng là cucurbitacin B, một saponin đắng kết tinh khi thuỷ phân cho acid oleonolic và một sapogenin trung tính; còn có một saponin khác.
Tất cả các bộ phận của mướp đều được sử dụng mà không có bất kỳ tác dụng phụ nào, những người có tì vị kém, đau bụng, đi phân nát, liệt dương thì không nên dùng mướp thường xuyên.
Theo Đông y, quả mướp vị ngọt, tính bình, không độc, dùng nấu nước uống giúp lợi sữa cho phụ nữ mới sinh, có thể nấu với móng giò lợn để ăn.
- Xơ mướp là vị thuốc lương huyết, hoạt huyết, thông kinh giải độc, giảm đau, cầm máu; dùng chữa chảy máu ruột, băng huyết, lỵ ra máu.
- Trái mướp: Trong trái mướp có chứa nhiều chất nhớt, nó có tác dụng giúp dễ tiêu hóa và kính thích tuyến sữa, tăng cường sự tuần hoàn máu..

- Lá mướp có vị đắng và chua, tính hơi hàn; có tác dụng chỉ huyết, thanh nhiệt giải độc, ho gà, trị vết thương chảy máu, trị mụn...
- Hạt có vị hơi ngọt, tính bình; có tác dụng trị ho nhiều đờm, tiểu khó ...
- Dây có vị ngọt, tính bình; có tác dụng thông kinh hoạt lạc, chỉ khái hoá đàm.
- Rễ có vị ngọt, tính bình; có tác dụng thanh nhiệt giải độc. Có thể dùng trị chứng viêm xoang mũi, đau lưng.
Dưới đây là công dụng tuyệt vời của quả mướp

Trị viêm xoang
Mướp khô dùng nồi rang teo lại, nghiền nhỏ thành bột mịn, mỗi lần uống 6g, vào buổi sáng sớm khi bụng trống rỗng dùng nước ấm hòa tan uống, uống liên tục 8 ngày.
Trị viêm yết hầu
Mướp mềm rửa sạch xay nhuyễn thành nước, thêm một lượng đường thích hợp, mỗi ngày uống 1 thìa,chia 3 lần uống.
Trị phong hàn ho
Mướp tự phơi khô, nghiền thành bột mịn, trộng với mật ong làm thành viên, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 9g.
Trị khuẩn lợi
Gốc, rễ, lá mướp đều được. Rửa sạch xong xay nghiền nhỏ thành nước, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 thìa.
Tăng tiết sữa
Phương pháp 1: 60g mướp, 1 cái chân giò, nấu chín nhuyễn ăn.
Phương pháp 2: Mướp già 1 quả, sấy khô, nghiền nhỏ, uống với rượu vàng lượng thích hợp, mỗi lần uống 9g.
Trị hen suyễn do dị ứng
Phương pháp 1: Dây mướp rửa sạch xay nghiền thành nước, mỗi lần uống 1 thìa, chia uống 3 lần.
Phương pháp 2: Mướp sống 2 quả, cắt ngắn, cho vào nồi luộc nhừ, lấy ra vắt nước đặc uống, khoảng 150ml, mỗi ngày uống 3 lần.
Trị đại tiện ra máu do trĩ
Phương pháp 1: Hoa mướp 30g, nấu nước uống, mỗi ngày 1 lần.
Phương pháp 2: Mướp tươi 250g cắt khúc, thịt lợn nạc 200g cắt miếng, thêm lượng nước thích hợp nấu canh ăn.
Trị đau nhức thần kinh
Lấy nước mướp hâm nóng xong uống, lượng dùng dựa theo triệu chứng bệnh nặng nhẹ để định đoạt, mỗi ngày khoảng 100ml hoặc dùng lá mướp xay nhuyễn thành nước bôi lên chỗ đau cũng có hiệu nghiệm.
Trị da sưng nhọt
Mướp tươi 1 quả, sau khi xay nhuyễn đắp lên chỗ đau, sau đó dùng vải màn băng lại, mỗi ngày thay 1 lần.
Trị nổi mề đay
Lá mướp tươi 1 nắm, nghiền nát thành nước, thêm vào một chút băng phiến, bôi lên vết lở, nổi.
Trị hói từng vùng
Mướp già chia thành miếng, dùng lực xát lau vào vùng không có tóc, cho tời lúc vùng đó phát nóng là được, mỗi ngày làm từ 2-3 lần.
Trị mồ hôi chân quá nhiều
Lấy mướp già đốt thành tro, tản rắc ở trong giày, chân trần không tất đi vào giày liên tục 15 ngày.

Đăng bởi trung19:09